2. Năm, Tháng, Ngày, Khí trong âm lịch
Thực ra âm-dương-lịch rất chính xác và chi ly! Nói về tháng là chỉ nói chừng chừng, đại khái mà thôi. Còn chính xác hơn về thời tiết thì đó là các thời điểm KHÍ trong âm lịch mà người nông dân dùng nó làm mốc mà gieo, cấy, gặt... Chẳng hạn như giở âm-dương-lịch ra thì ngày hôm nay là ngày 14/2/2001 tức ngày Đinh Sửu, 20 tháng 12, Kỷ Sửu năm Canh Thìn, KHÍ Đại Hàn. Tìm hiểu kỹ hơn ta sẽ thấy trong âm dương lịch có hai hệ thống tháng: tháng tuần trăng và "tháng" thời tiết (giữa các điểm khí). Muốn hiểu rõ hơn về hai hệ thống này cũng như cách sắp xếp ngày, tháng, năm, nhuận của âm-dương-lịch thiết tưởng chúng ta nên đi sâu vào định nghĩa của các khái niệm này cũng như mối liên hệ của nó với sự vận chuyển của "trời đất".
Một
ngày bắt đầu từ điểm nửa-đêm và chia làm 12 giờ (Tý-Hợi) . Một giờ lại được chia thành hai khoảng: Sơ và Chính. Một ngày không bắt đầu bằng giờ đầu tiên là giờ tý mà ở điểm bắt đầu của chính tý. Giờ tý như thế có hai phần, nửa đầu thuộc ngày hôm trước. Nhìn kỹ lại ta thấy thực ra xưa cũng như nay ngày dều chia thành 24 khoảng. Chính Tý tương đương với 0 giờ, Sơ Sửu là 1 giờ sáng.
Tháng thể hiện sự vận chuyển của mặt trăng. Khi mặt trăng và mặt trời ở cùng một hướng đối với trái đất và xoay nửa tối về phía ta thì gọi là thời điểm SÓC (nghĩa là trăng sống lại). Khi nó ở hướng ngược lại và xoay nửa sáng về phía ta thì gọi là thời điểm VỌNG (nghĩa là trông). Khi người ta quan sát chuyển động biểu kiến trên tinh cầu thì thấy nó chạy trên quỹ đạo gọi là BẠCH ĐẠO. Chu kỳ của trăng để đi hết một vòng bạch đạo, từ điểm sóc này đến điểm sóc tới gọi là SÓC-SÁCH.
Ngày chứa điểm SÓC là ngày mồng một, là điểm gốc để bắt đầu một tháng. Số ngày trong tháng được làm chẵn thành tháng đủ 30 ngày và tháng thiếu 29 ngày.
Năm thể hiện sự vận chuyển của trái đất quanh mặt trời, hay về mặt thiên văn biểu kiến mà nói, thì mặt trời chạy vòng trên tinh cầu theo quỹ đạo gọi là HOÀNG-ĐẠO. Trên hoàng đạo có bốn điểm chính là xuân phân, hạ chí, thu phân và đông chí là các điểm mốc để phân định thời tiết. — điểm "phân" cuả xuân và thu ngày và đêm dài bằng nhau. — điểm "chí" của hạ thì (đối với bắc bán cầu) ngày dài (nhất) so với đêm còn ở điểm đông chí thì ngược lại. Đứng về mặt vị trí trái đất mà nói thì ở điểm hạ chí trái đất nghiêng bắc bán cầu vào phía mặt trời và điểm đông chí thì ngược lại. Từ bốn điểm mốc đó người ta phân nhỏ hơn thành 24 thời điểm gọi là KHÍ là các điểm mốc về thời tiết. Khí được phân làm hai loại: TIẾT là ngăn chia, và TRUNG là giữa. Như vậy ta có 12 trung khí và tiết khí xen kẽ nhau. Chính ở khái niệm khí này mà ta thấy trong âm lịch có một hệ thống phân bổ "tháng" (khoảng giữa hai điểm trung hay tiết) song hành với dương lịch, nghĩa là với năm thời tiết. Mỗi điểm khí có một ngày tương ứng trong dương lịch. Tên gọi các khí mang ý nghĩa về thời tiết hay muà màng.
Sau đây là một vài điểm khí trong năm với ý nghĩa, tính chất và điểm tương ứng của nó trong dương lịch (với sai số 1 ngày): Đông Chí (trung,giữa đông, 22/12) ; Tiểu Hàn (tiết, rét vừa, 6/1) ; Đại Hàn (trung, rét gắt, 21/1).Lập Xuân (tiết,đầu xuân,5/2) ; Vũ Thuỷ (trung,mưa nước,29/2) ; Kinh Trập (tiết,sâu bọ tỉnh dậy,5/3) ; Xuân Phân (trung,giữa xuân,20/3) ; Thanh Minh (tiết,trời trong,5/4) ...
Nếu xem 12 khoảng giữa các "tiết" hoặc "trung" như một hệ thống "tháng thời tiết" thì ta thấy âm-dương-lịch không khác gì với dương lịch. Ta có thể nói một cách khác là: trong âm-dương-lịch có hai hệ thống "tháng" : tháng tuần trăng và "tháng thời tiết" với độ dài hơi chênh nhau. Tuần trăng có 29.53 ngày và tháng thời tiết là 30.41 ngày (đây là số trung bình bởi vì mặt trăng và trái đất xoay có khoảng nhanh khoảng chậm, theo định luật thứ hai của Kepler). Vấn đề là đặt ra quy tắc để hai hệ thống tuần-trăng và thời-tiết song hành với nhau với độ chênh ít nhất như có thể. Quy tắc đó là phép NHUẬN.
Muốn hình dung ra phép nhuận chúng ta hãy tưởng tượng ra hai xâu chuỗi thời gian: chuỗi tuần trăng với các hạt là điểm sóc màu xanh, chuỗi thời tiết với các hạt là điểm trung-khí màu đỏ. Cầm hai chuỗi chập lên nhau ta sẽ thấy: mới đầu giữa hai hạt xanh thế nào cũng có một hạt đỏ, sau đó các hạt xanh do khoảng cách ngắn hơn dần dà di động thụt lui so với hạt đỏ, và đến một lúc nào đó sẽ có hai hạt xanh nằm gọn trong khoảng hai hạt đỏ. Khác với các khoảng khác, lúc này giữa hai hạt xanh
không có một hạt đỏ nào. Nếu ta giả vờ "quên" không đếm khoảng ấy thì sự phân bổ các hạt cuả hai chuỗi bớt lệch đi và lại trở lại "song hành" như trước. Khoảng ấy gọi là "nhuận". Với nguyên tắc đó các lịch gia đặt ra quy tắc:
Tháng không có trung khí là tháng nhuận. Tháng nhuận đó không tên gọi cũng như can chi riêng (nói cách khác: không được "đếm") mà mang tên của tháng trước với từ Nhuận ở kế bên. Thời xưa, ngày sóc tháng nhuận, vua không làm lễ cốc-sóc như mọi đầu tháng mà chỉ đứng ở cửa nhà cáo-miếu chứ không vào, vì thế chữ "nhuận" được viết là chữ "vương" là vua ở giữa chữ "môn" là cửa.
(Trích Lịch ta, Lịch tàu và sự khác biệt - Đoan Hùng, đăng trên blog của Hồ Ngọc Đức -http://www.informatik.uni-leipzig.de/~duc/amlich/)