Các bạn thân mến, Trước tiên xin cảm ơn các bạn đã quan tâm theo dõi chủ đề này. Ở Bài 1 chúng ta đã bàn về con đường học tử vi, nếu các bạn muốn đồng hành với tôi, xin tiếp tục ở loạt bài số 2, tìm hiểu sơ qua về Nguồn gốc, đặc điểm và lịch sử phát triển của Tử vi. Còn nhiều quan điểm tranh cãi , tôi tạm sưu tâm và tổng hợp đưa ra ý kiến chủ quan của riêng mình, mong các bạn thêm chút "gạch, đá " để hoàn thiên thêm
BÀI 2: SƠ LƯỢC VỀ NGUỒN GỐC - ĐẶC ĐIỂM, LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN CỦA MÔN TỬ VI
I. THUẬT NGỮ TỬ VI ĐẨU SỐ
“Tử vi” hiểu đầy đủ là Tử vi viên trong Thiên văn học cổ đại, “Đẩu” là sao, “số” là số mệnh. “Tử vi đẩu số” là phép tiên đoán số mệnh dựa theo các sao thuộc chòm Tử vi viên, căn cứ vào ngày giờ tháng năm sinh của con người. Số mệnh con người được xét trong tử vi là số phận con người gắn liền với gia đình, dòng họ (ông bà, bố mẹ, anh em, con cái) và những mối quan hệ xã hội.
Đối tượng của xem bói trong tử vi là số mệnh và Vận trình của cuộc đời con người. Có thể dự đoán Mệnh / Vận tốt xấu, Quý / Tiện ít nhiều, nói rõ cụ thể chắc chắn mà không trừu tượng.
Thông qua mệnh bàn 12 cung, có thể dự đoán được mối quan hệ tương tác giữa cá nhân và xã hội, bao gồm hình thức và diễn biến. Tùy mức độ hiểu biết về tử vi và bề dày kinh nghiệm xã hội mà có thể luận đến mức cao thâm và tinh tế. Đây là đặc điểm rất khác và đặc biệt hơn hẳn của tử vi so với các môn mệnh lý khác.
II.NGUỒN GỐC MÔN TỬ VI
Đời Gia Tĩnh (vua
Minh Thế Tông) có lưu truyền cuốn Tử vi Đẩu số Toàn thư do tiến sĩ La Hồng Tiên biên soạn. Lời tựa nói Tử Vi đẩu số toàn thư là của tác giả Hi Di
Trần Đoàn. Bài tựa viết như sau:
“Thường nghe nói cái lý của số mệnh rất huyền vi ít ai biết cho tường tận để mà thuận thụ coi công danh phú quí trên đời đều có mệnh.
Tôi vì muốn biết nên đă tới tận núi Hoa Sơn chỗ ông Hi Di Trần Đoàn đắc đạo để chiêm bái nơi thờ tự của bậc đại hiền. Lúc ra về thì thấy một vị cao niên thái độ ung dung chân thực đưa cho tôi cuốn sách mà bảo: “Đây là Tử vi đẩu số tập của Hi Di tiên sinh”.
Các sách về Tử vi sau này cũng đều thống nhất rằng người đầu tiên tổng hợp, hệ thống lại thành môn bói này là Trần Đoàn (tức Hi Di Lão Tổ) sống vào
đời Bắc Tống,
Trung Quốc.
Trần Đoàn lão tổ là người kiến văn rất quảng bác, hiệu là Phù dao tử, thích tư tưởng của Đạo gia, ngài từng tổng kết Nội đan Đạo pháp, là Tác giả của " Dịch kinh đồ, Tiên thiên đồ, Vô cực đồ " , là một trong vài khuôn mặt chủ lưu của lãnh tụ Đạo gia hậu Tống, có ảnh hưởng lớn lao đến người đương thời và mãi đến hiện nay Đường minh tông từng tứ hiệu cho ngài là " Thanh hư ngoại sĩ " , cũng như Đường thế tông tứ hiệu " Bạch vân tiên sinh " , Tống thái tông Triệu quang Nghĩa tặng hiệu " Hi Di tiên sinh " , sau này Đạo sĩ và Hoa sơn đạo giáo tôn xưng ngài là Tổ sư, Hoa sơn Ngọc tuyền viện tôn xưng ngài là Giáo chủ,
Hoa sơn tại tỉnh Thiểm Tây, vị trí tại phía Nam Huyện Hoa Âm, là Tây nhạc trong hệ thống Ngũ Nhạc, là Động thiên đứng hàng thứ 4 trong 36 động thiên của Đạo giáo, Hoa sơn có Chủ phong (núi cao nhất) có Hải bạc là 1997 mét, trong Ngũ nhạc chỉ thua có Bắc nhạc Hằng sơn, nhưng Hoa sơn có sơn thế hùng vĩ hiểm ác không đâu sánh bằng, nên được gọi là " Kỳ hiểm thiên hạ đệ nhất sơn " , từ xa xưa, Hoa sơn đã là nơi linh địa của Đạo giáo, hiện còn một số tự viện liên quan như Tây nhạc miếu và Ngọc tuyền viện ở dưới chân núi, trên núi thì có Đông đạo viện, Trấn nhạc cung, Ngọc nữ từ, Túy vân cung, , trong đó Ngọc tuyền viện, Đông đạo viện và Trấn nhạc cung được xem là 3 trọng điểm của các Cung Quan Trung quốc,
Cứ theo truyền thuyết thì Lão tử cũng từng lưu chân tại Hoa sơn, tại núi Nam phong của Hoa sơn nay vẫn còn lưu giữ một lò luyện đan của Lão tử. Tại sơn môn của Ngọc tuyền viện, bước lên thạch cấp đi xuyên qua Chính môn và tiếp tục duyên theo thạch lộ mà đi thì sẽ gặp Hi Di động.
Động này được phân làm Tiền và Hậu điện, phía tả tiền điện có tấm bia Hoa sơn thạch đồ, mé trái có một thạch bia do một thư pháp danh gia thời Tống tạc mấy chữ Đệ nhất sơn, hậu điện là tượng ngồi của Lão tổ, ngoài ra còn một số di tích khác liên quan đến lão tổ như Hi Di Trũng, Hi Di Động, Son Tôn Đình, Nạp Kinh Đình, Vô Ưu Đình, Quần Tiên Điện Và Tam Cung Điện, Sơn Tôn Đình được xây trên một tảng đá khổng lồ, kiến trúc kỳ dị, tương truyền đây là nơi Tổ sư thường đúng ngắm cảnh. Cạnh đình có một cây cổ thụ tuy quá cổ lão nhưng vẫn xanh um gọi là Vô ưu thụ, đồn rằng cây này do đích thân Trần Đoàn trông nên, Hi Di động thì nằm ở gần cạnh đình, là nơi để Tổ sư tĩnh dưỡng (ngài ngủ rất lâu), bên trong có một bức tượng ngài đang ngủ! Toàn cảnh Ngọc tuyền viện đình miếu ngổn ngang, suối reo róc rách, cây cối thâm u, tạo cho du khách cái cảm giác thoát trần, tại đây còn lưu một bài của Khang hữu Vi:
Cốc Khẩu Tuyền Thanh Dẫn Khúc Lưu
Trường Lan Hồi Hợp Thụ Vô Ưu
Tuyền Thanh Sơn Sắc Khả Vong Thế
Nhượng Dữ Hi Di Thùy Vạn Thu...
Tử vi du nhập vào Việt nam tương truyền là từ thời Trần, do Huệ Túc Phu nhân là người Trung quốc đưa vào. Theo “Đông A Di sự” , thân phụ của Huệ Túc Phu nhân là quan nhà Tống, nhờ biết tử vi, nhìn thời cuộc mà thấy sự suy tàn của nhà Tống nên đem gia quyến qua Việt nam lánh nạn, tiến cử con gái là Thuỷ Thiên cho vua nhà Trần và được phong là Huệ Túc phu nhân. Huệ Túc phu nhân rất giỏi môn Tử vi đẩu số, đem dạy cho các con cái quan lại (đều là họ Trần).
Có rất nhiều học giả Việt Nam đã cống hiến thêm cho môn này, trong đó có
Nguyễn Bỉnh Khiêm và
Lê Quý Đôn. Dần dần, Tử Vi Việt Nam có thêm những dị biệt so với Tử Vi nguyên thủy của Trung Quốc. Đặc biệt Tử vi Việt Nam có hệ thống phú Nôm dễ đọc và nhớ nhưng lại rất chính xác khi luận đoán.