Tổng hợp bài viết về tử vi của thầy tuetvnb

Thanh Vũ

Thành viên nhiệt tình
1. SAO THIÊN TƯỚNG:

Thiên tướng phụ luận:
Sao Thiên Tướng thuộc Nam đẩu tinh hệ, an cách Thiên Phủ 5 cung theo chiều thuận. Thiên tướng là sao hành thủy, chuyên trông coi việc binh nhung, phò trợ cho Đế tinh. Trong nhóm Tử Phủ Vũ Tướng thì Thiên tướng đóng vai trò là Tá Tinh (sao trợ giúp). Hóa khí sao này là Ấn tinh, chuyên về quyền chức, quan lộc, ngoài ra nếu hội cung Thiên Phủ thì còn mang thêm ý nghĩa về Tài tinh. Về tính chất, Thiên Tướng là Quyền lệnh, Uy dũng, Phú quý, Thanh sắc, Tài phú.
Con người Thiên Tướng điềm tĩnh, “Kiến nhân nan, hữu trắc ẩn chi tâm; Kiến nhân ác, bão bất bình chi khí” (thấy người khó thì động lòng trắc ẩn, thấy người ác thì nổi sự bất bình). Khí chất thanh cao, con người quảng bác, ưa thanh sắc bề ngoài. Nếu gặp Đào Hồng – Nữ nhân thì nhan sắc sáng ngời, Nam nhân thì dung nhan tú mỹ. Nhưng nếu hội cùng bọn dâm tinh, Cái Đào Riêu Khúc Mộc, ắt dâm phong thuần tược, ăn chơi sa đọa một đời.
Thiên Tướng hợp với các bộ sao tá tinh cấp dưới như Tả Hữu, Tướng Ấn, Phụ Cáo. Cực tốt nếu hội được văn tinh và quý tinh như Xương Khúc, Khôi Việt, Khoa Quyền Lộc. Nhưng nếu hội văn tinh mà thiếu quyền tinh thì dễ sa đà. Thiên Tướng muốn thành nghiệp hơn đời phải cần có Tả Hữu, Binh Hình Tướng Ấn, Tứ Linh hội hợp, thì công danh phú quý không thể nói hết.
Thiên Tướng là Quyền Lệnh tinh nên nó có khả năng khắc chế, giải trừ được các sao hung sát tinh như Không Kiếp Kình Đà, nhưng khí đó Thiên tướng sẽ bị hao tổn nguyên thần mà ảnh hưởng đến số mệnh, cuộc đời thêm nhọc nhằn, bôn ba. Nếu hung sát tinh quá nhiều, hội đủ bộ thì “mãnh hổ nan địch quần hổ”, sẽ gây nguy hiểm cho Thiên tướng, không nhưng mất hết tốt đẹp mà còn gây nhiều tai họa.
Vì Thiên tướng là Tá Tinh, cho nên nó phò trợ rất tốt cho Đế tinh, khi đóng tại Thìn Tuất, Thiên Tướng hộ giá cho Tử Vi, tăng thêm quyền lực. Nhưng vì lúc này Tử vi đã xa rời chính cung nên thiên về bôn ba, ly hương thoái tổ.
Khi Thiên tướng là Tài tinh, hội cùng Thiên Phủ thì Thiên Tướng sẽ hóa tài tinh do ảnh hưởng từ Tài khí của thiên Phủ mà làm nên phú quý. “Thiên Phủ, Thiên Tướng, nãi vi y lộc chi thần” (Thiên Phủ, Thiên Tướng hội vào mệnh là cách Phủ Tướng triều viên nên trở thành Thần của Y Lộc).

Về Thiên Tướng, Tử Vi Đẩu số toàn thư có viết :

“….Thiên tướng chúc thủy, nam đấu đệ ngũ tinh dã. Vi ti tước chi túc, vi phúc thiện, hóa khí viết ấn, thị vi quan lộc văn tinh, tá đế chi vị. Nhược nhân mệnh phùng chi, ngôn ngữ thành thật, sự bất hư ngụy. Kiến nhân nan, hữu trắc ẩn chi tâm; Kiến nhân ác, bão bất bình chi khí. Quan lộc đắc chi tắc hiển vinh, đế tọa hợp chi tắc tranh quyền. Tá Nhật Nguyệt chi quang, kiêm hóa liêm trinh chi ác. Thân Mệnh đắc chi nhi vinh diệu; Tử tức đắc chi nhi tự tục xương, thập nhị cung trung giai vi tường phúc, bất tùy ác nhi biến chí, bất nhân sát nhi cải di. Hạn bộ phùng chi, phú bất khả lượng. Thử tinh nhược lâm sinh vượng chi hương, tuy bất phùng đế tọa, nhược đắc Tả Hữu, tắc chức chưởng uy quyền. Hoặc cư nhàn nhược chi địa, dã tác cát lợi, nhị hạn phùng chi chủ phú quý…”
Tạm dịch: Thiên Tướng thuộc thủy, là ngôi thứ 5 của Nam Đẩu hệ, là nơi coi sóc việc chức tước, là phúc thiện tinh, hóa khí là Ấn Tinh – là quan lộc văn tinh, phò tá cho Đế tinh. Nếu nhân Mệnh gặp được thì là người ngôn ngữ thành thật, không dối trá. Thấy người khó thì động lòng trắc ẩn, thấy người ác thì nổi sự bất bình. Quan lộc cung mà được thì dễ hiển vinh, đứng cùng Đế tinh dễ tranh đoạt quyền hành. Giúp cho Nhật Nguyệt thêm sáng, gặp Liêm Trình thì thành ác. Nhập vào Thân Mệnh thì vinh hoa. Nhập vào Tử tức thì con cái tốt đẹp, 12 cung đều tốt cả. Không theo ác mà đổi chí, không sợ ác mà thay dạ. Hạn mà gặp thì phú quý không đo hết được. Sao này nếu vào đất Sinh Vượng, tuy chẳng gặp Đế tọa mà được gặp Tả Hữu thì vẫn có uy quyền chấp chưởng. Hoặc nếu cư vào nhàn địa, vẫn được tốt đẹp. Nhị hạn mà gặp chủ về phú quý.

Hi Di tổ sư viết về Thiên Tướng:

“….Thiên tướng Nam đấu ti tước chi tinh, hóa khí vi ấn. Chủ nhân y thực phong túc, xương khúc tả hữu tương hội, vị chí công khanh. Hãm địa tham liêm vũ phá dương đà sát thấu, xảo nghệ an thân. Hỏa linh trùng phá tàn tật, nữ nhân chủ thông minh đoan trang, chí quá trượng phu. Tam phương cát củng phong tặng luận, nhược xương khúc trùng phá thị thiếp, tại tăng đạo chủ thanh cao….”
Tạm dịch : Thiên tướng là Nam đẩu tinh coi việc quyền chức, hóa khí là ấn tinh, chủ về ăn mặc phong túc (đầy đủ), hội cùng Xương Khúc Tả Hữu, là số công khanh. Hãm địa mà gặp Tham Liêm Vũ Phá Dương Đà sát tinh thì nhờ xảo nghệ (nghề khéo) mà được yên thân. Ngộ Hỏa Linh cung xâm phá thì dễ tàn tật. Nữ nhân có Tướng chủ thông minh, đoan trang, có chí khí như nam nhi. Ba phương mà có cát tinh củng chiếu dễ được phong tặng. Nếu bị Xương Khúc trùng phá thì dễ làm phận tỳ thiếp. Nếu là tăng đạo đi tu thì chủ về thanh cao…”

Bài ca về Thiên Tướng trong Đẩu số toàn thư như sau :

Thiên tương nguyên chúc thủy,
Hóa ấn chủ quan lộc,
Thân mệnh nhị cung phùng,
Định chủ đa tài phúc,
Hình thể hựu phì mãn,
Ngữ ngôn bất khinh độc,
Xuất sĩ chủ phi đằng,
Cư gia chủ tài cốc,
Nhị hạn nhược phùng chi,
Bách sự khán sung túc.

Tạm dịch :

Thiên tướng nguyên thuộc thủy, Hóa Ấn tinh, chủ về Quan lộc Thân mệnh hai cung mà gặp thì nhiều tài nhiều phúc, hình thể to lớn mập mạp, ngôn ngữ cẩn trọng không khinh độc, nếu đi vào quan trường dễ thành công lớn, nếu ở nhà thì cũng chủ tài cốc, nhiều lúa nhiều tiền, Đại tiểu hạn mà gặp, mọi sự đều tốt đẹp, sung túc.
Còn trường hợp Thiên Tướng gặp Tuần Triệt thì sao? Trong cổ thư không thấy nói đến trường hợp Tướng ngộ Tuần Triệt. Nhưng lấy hình tượng mà suy thì khi gặp Tuần Triệt, là đất không vong, Thiên tướng không còn đất dụng võ, trở nên khốn quẫn, bí bách. Cuộc đời đương số khó thành đạt, công danh tài lộc đều bị ảnh hưởng. Nếu lại bị gặp bọn Hung Sát tinh hội hợp thì chẳng khác nào tướng bị vây khốn, không những vất vả bôn ba lao toái, mà còn gây tai họa khôn lường. Tượng của thiên tướng là Đầu, Mặt, cho nên dễ mang thương tích. Gặp trường hợp này, binh gia tối kỵ - dễ bỏ thân nơi trận mạc. Nhưng cần xem xét kỹ, nếu chỉ lạc Không vong mà không bị Sát tinh xâm phá thì cũng không đến nỗi nào, cuộc đời tiên trở hậu thành, nghèo trước sướng sau, trường hợp này rất cần tránh xa dâm tinh.

Luận về Thiên Tướng ngộ Tuần-Triệt: các sách Tử vi mới đều nói là “tướng cụt đầu” hay “ấn tín bị sứt mẻ” – mất hết uy quyền, lại dễ bị mắc tai nạn khủng khiếp, tàn tật, đầu-mặt mang thương tích… Nhưng thực tế chiêm nghiệm cho thấy điều này chưa hoàn toàn đúng. Ngộ Tuần Triệt nhưng cần phải xem xét 3 phương xem tốt xấu nặng nhẹ thế nào, các sao cứu giải ra sao, nhất là bộ Tử Vi - Vũ Phủ - Tả hữu, nếu sáng sủa tốt đẹp thì cũng chẳng đáng lo ngại, cuộc đời vẫn phong túc như thường. Trong nhóm các Cát tinh, thì Thiên Tướng là sao rất tốt, vừa uy dũng, vừa tài phú. Con người – Số mệnh đều tốt, chế hung giải nguy, cho nên cũng không mấy khi “đầu mình phân hai” như một số nhận định.
 
Chỉnh sửa cuối:

Thanh Vũ

Thành viên nhiệt tình
2. SAO THẤT SÁT:

Bàn chút về Thất sát :Có 2 thế đứng (cách) liên quan đến Thất Sát,
- Thất Sát triều Đẩu
- Thất Sát ngưỡng Đẩu

Như thế nào là Thất Sát triều đẩu? như thế nào là Thất Sát ngưỡng Đẩu?
Hai câu trên đều nói về Thất Sát, còn có tên khác là :
- Phủ Sát triều Đẩu
- Phủ Sát ngưỡng Đẩu

Vì Thất Sát luôn đối cung với Thiên Phủ, nên có thể dùng cả hai cách gọi trên đều đúng.
Cả hai cách đều dùng để chỉ Thất Sát khi đóng ở vị trí Tý-Ngọ. Chẳng qua nó chỉ là chuyện câu chữ thôi, vì trong Thiên Văn học, phương Bắc là phương vị của sao Bắc Cực, và ở Bắc phương có chòm sao Bắc Đẩu (gồm 7 ngôi), mà người ta thường gọi nó là ĐẨU, ĐẨU tức là chòm sao Bắc Đẩu, hoặc bóng gió thì dùng để chỉ phương Bắc, vì trung thiên Bắc cực là nơi Tử vi cung đóng ở đó.

Chữ NGƯỠNG tức là ngửa mặt lên để xem xét, nhìn ngắm. Cho nên cách THẤT SÁT NGƯỠNG ĐẨU là thường dùng khi thất sát đứng ở phương Nam (cung Ly) mà nhìn về phương Bắc, tức là đứng tại Ngọ, nhìn về Tý.

Còn chữ TRIỀU tức là tập trung vào, chầu vào, trong Tử vi chữ Triều được dùng trong trường hợp có 1 sao hoặc 1 nhóm sao hội hợp trong tam phương tứ chính, thì được gọi là Triều. Vì thế, trường hợp Thất Sát đóng tại chính BẮC CUNG thì được gọi là THẤT SÁT TRIỀU ĐẨU. Chính là trường hợp Thất sát cư Tý.

Luận tử vi, quan trọng nhất là cái sự Miếu hãm, còn vì sao là miếu, vì sao là hãm thì vẫn còn trong vòng bí ẩn. Đối với Thất Sát, Miếu ở Dần Thân Tý Ngọ, cổ nhân dựa trên tiêu chí này để đánh giá cát hung cho Thất Sát.

Trong các quan điểm về Thất Sát, cụ Vũ Tài Lục có xu hướng thiên về luận Ngũ Hành sinh khắc, vốn dĩ là căn bản của môn Tử Bình. Do vậy mới suy ra như thế. Các danh sư đời trước không viết như vậy. Theo sự giải thích của cổ thư, Chữ TRIỀU đã nói là hội hợp trong TAM PHƯƠNG TƯ CHÍNH. Tức là bao gồm cả Dần Thân, tuy nhiên Thất Sát Dần Thân được coi là Bàng cách, cư Tý là chính cách.

Trong các câu phú về Thất sát có nói :

Thất sát triều đẩu, nhập Tướng ư phủ môn – Nhập cách thất sát triều đẩu có thể làm Tướng trong phủ.Kể cũng là tốt, bởi Thất Sát là lệnh tinh, nhập tướng là đỉnh cao rồi. Vả lại, tốt hay xấu còn phụ thuộc vào trợ tinh, tá tinh nữa. Trong Đẩu Số Toàn thư viết :

Thất sát Dần Thân Tý Ngọ cung
Tứ di củng thủ phục anh hùng
Khôi Việt Tả Hữu Văn xương hội
Quyền lộc danh cao, thực vạn chung

(Thất sát cư cung Dần - Thân - Tý – Ngọ thì bốn phương đều chắp tay phục là kẻ anh hùng, nếu được Khôi Việt Tả Hữu Văn xương hội hợp, ắt sẽ là kẻ quyền cao chức trọng, giầu có vạn chung)

Như vậy, cổ nhân không cho rằng Thất Sát cư Tý là xấu. Nếu xét trong Ngũ hành, thì khó lý giải, bởi lẽ Thất sát hành Kim (chứ không phải Hỏa Kim như cụ Vũ Tài Lục nói), cư cung Tý thuộc thủy, vẫn là sinh xuất, có hao tổn nhưng không thể gọi là xấu. Trường hợp tại Dần thuộc Mộc => Sao khắc cung, Thất Sát cũng không bị tổn thương, chỉ gây khó nhọc. Thất sát cư cung Thân, thuộc Kim => bình hòa, cũng không bị tổn thương. Do vậy, cái lý thuyết Miếu hãm, không thể trộn với lý thuyết Sinh Khắc của Ngũ hành được. Việc Ngũ hành chế hóa, là trên phương diện khác, trên diễn đàn tôi đã có viết, tìm đọc thêm sẽ rõ.
 

Thanh Vũ

Thành viên nhiệt tình
3. SAO PHÁ QUÂN:

BÀN VỀ PHÁ QUÂN:
Phá quân, là ngôi sao thứ 7 trong chòm Bắc Đẩu, nó là 1 trong Bắc đẩu thất tinh, chính là ngội vị chót cùng của chòm sao Cán gáo (đại hùng tinh). Người xưa quan sát thiên văn, lấy nó định ra 4 mùa xuân hạ thu đông. Phá Quân, tên trong Thiên Văn Học Cổ gọi là Dao Quang (hay Diêu Quang), còn ở Tử vi nó mang tên là Phá Quân, với ý nghĩa, Phá = Phá phách, Quân = Trại lính. Xưa nay người ta vẫn nhầm chữ QUÂN là VUA cho nên mới nói rằng nó ĐỐI NGHỊCH với TỬ VI. Nhưng thực tế thì không hẳn như thế. Tìm trong các tài liệu cổ, thấy viết về Phá Quân khá ít, mà quan điểm cũng không thống nhất. Có lẽ vì Phá Quân vốn là một ngôi sao cơ biến, tính động khá lớn, cho nên thuộc tính khó xác định, biến chuyển mạnh mẽ. Vì vậy mà làm cho các học giả xưa nay thường không thống nhất ý kiến được.

Trong Đẩu Số Toàn Thư viết về Phá Quân :
“….Phá Quân thuộc thủy, Bắc Đẩu đệ thất tinh dã, ti phu thê, tử tức, nô bộc chi thần. Cư Tý Ngọ nhập miếu, tại thiên vi sát khí, tại số vi hao tinh, cố hóa khí viết hao. Chủ nhân bạo hung giảo trá, kì tính gian hoạt, dữ nhân quả hợp, động triếp tổn nhân. Bất thành nhân chi thiện, thiện trợ nhân chi ác. Ngược thị lục thân như khấu thù, xử cốt nhục vô nhân nghĩa, duy Lục Quý Lục Giáp sinh nhân hợp cách chủ phú quý. Hãm địa gia sát xung phá, xảo nghệ tàn tật, bất thủ tổ nghiệp, tăng đạo nghi chi. Nữ nhân xung phá dâm đãng vô sỉ. Thử tinh cư Tử Vi tắc thất uy quyền; phùng Thiên Phủ tắc tác gian ngụy; hội Tử Tham tắc thử thiết cẩu đạo. Dữ Liêm Trinh, Hỏa, Linh đồng độ tắc quyết khởi quan phi; dữ Cự Môn đồng độ tắc khẩu thiệt tranh đấu; Dữ Hình, Kị đồng độ, tắc chung thân tàn tật. Dữ Vũ Khúc nhập tài vị, tắc đông khuynh tây bại; dữ văn tinh thủ mệnh nhất sinh bần sĩ. Ngộ chư hung kết đảng phá bại, ngộ hãm địa kì họa bất khinh. Duy Thiên Lương khả chế kì ác, Thiên Lộc khả giải kì cuồng. Nhược phùng lưu sát giao tinh, gia nghiệp đãng không. Dữ Văn Khúc nhập ư thủy vực, tàn tật, li hương. Ngộ Văn Xương vu Chấn cung, ngộ cát khả quý. Nhược nữ mệnh phùng chi, vô môi tự giá, táng tiết phiêu lưu. Phàm tọa nhân thân mệnh cư Tý Ngọ, Tham Lang Thất Sát tương củng tắc uy chấn Hoa Di. Hoặc dữ Vũ Khúc đồng cư Tị cung, Tham Lang củng diệc cư đài các. Đãn khán ác tinh hà như? Giáp Quý sinh nhân nhập cách, đáo lão diệc bất toàn mĩ dã. Tại thân mệnh hãm địa, khí tổ li tông; Tại huynh đệ cốt nhục tham thương; Tại phu thê bất chính, chủ hôn nhân tiến thoái; Tại tử tức tiên tổn hậu thành; Tại tài bạch như thang kiêu tuyết; Tại tật ách trí uông doanh chi tật; Tại thiên di bôn tẩu vô lực; Tại nô bộc báng oán đào tẩu; Tại quan lộc chủ thanh bần; Tại điền trạch hãm độ, tổ cơ phá đãng; Tại phúc đức đa tai; Tại phụ mẫu phá tương hình khắc….”

Tạm dịch:
“…Phá quân thuộc Thủy, là sao thứ 7 trong Bắc Đẩu thất tinh. Là thần cai quản việc Phu Thê, Nô Bộc và Tử tức. Cứ Tý-Ngọ là nhập miếu. Ở trên trời là sát khí, vào số mệnh là HAO TINH. Cho nên nói rằng Hóa khí của nó là HAO. Chủ về người hung bạo xảo trá, tính tình gian hoạt khó lường, không hợp với người. Hành động thường làm tổn hại tới người khác. Không làm điều thiện với người, mà lại trợ giúp kẻ ác. Ngang ngược, coi lục thân như kẻ thù, đối xử với cốt nhục vô nhân nghĩa. Chỉ có người sinh Lục Quý-Lục Giáp thì hợp cách chủ về phú quý. Nếu hãm địa, gia thêm sát tinh mà lại trùng Phá (phá toái), thì là người có nghề nghiệp khéo (xảo nghệ), nhưng mà phải chịu tàn tật, không giữ được tổ nghiệp, nên làm tăng đạo. Nữ nhân gặp Phá, dâm đãng vô sỉ. Sao này mà cư đồng cung với Tử vi thì mất hết uy quyền, gặp Thiên Phủ thì dễ trở thành gian ngụy. Hội với Tử Tham thì là phường trộm cắp tham lận. Với Liêm trinh Hỏa linh đồng độ thì chắc chắn gặp chuyện quan tụng thị phi. Với Cự môn đồng độ thì khẩu thiệt tranh đấu. Với Hình Kỵ đồng độ, thì chung thân tàn tật. Với Vũ khúc nhập cung tài thì ắt “Đông thành, tây bại”. Với Văn tinh thủ mệnh thì một đời bần sĩ. Gặp đám hung tinh kết đàng phá bại, gặp hãm địa thì họa không phải là nhẹ. Chỉ có Thiên lương mới chế được tính ác, Thiên lộc (Lộc tồn) mới giải được tính cuồng của Phá. Nếu gặp “lưu sát giao tinh” nghiệp nhà ắt hỏng. Cùng Văn Khúc nhập Thủy cung thì dễ tàn tật ly hương. Ngộ Văn Xương tại Chấn cung, mà lại gặp được cát tinh thì có thế thành Quý. Nữ mệnh gặp cách này, lấy chồng không cần mai mối, táng tiết phiêu lưu. Phàm là người mệnh cư Tý Ngọ Phá tọa thủ, Tham lang Thất sát tương củng (chiếu) ắt là uy chấn bốn phương. Hoặc nếu với VŨ KHÚC đồng cư Tỵ cung thì sẽ có Tham lang củng chiếu, cũng là quý hiển đài các. Đối với ác tinh xem như thế nào? Người sinh tuổi GIÁP QUÝ nhập cách, về già không được toàn mỹ. Tại Thân Mệnh mà hãm địa, ly tổ ly tông, tại Huynh đệ, cốt nhục tương tàn. Tại Phu thê, vợ chồng bất chính, chủ về hôn nhân tiến thoái. Tại Tử tức, trước tổn sau thành. Tại Tài bạch, như nước nóng đổ xuống tuyết. Tại tật ách, chú về tai nạn lớn. Tại Thiên di bôn tẩu nhọc nhằn. Tại Nô bộc, thì bị phản. Tại Quan lộc, chủ thanh bần. Tại Điền trạch mà lại hãm, phá đãng tổ nghiệp. Tại Phúc đức, nhiều tai kiếp. Tại phụ mẫu, khắc cha mẹ…”

Đọc đoạn trên, chúng ta thấy rằng cổ nhân nhìn nhận Phá quân có lẽ hơi có phần khắt khe quá! Bởi thực tế cũng còn phụ thuộc nhiều yếu tố. Vì thế, nhìn nhận một cách công bằng, thì Phá Quân là một Đại Hung tinh, tính của nó là HAO, chuyên coi việc NÔ BỘC, TỬ TỨC, và PHU THÊ. Bởi vậy, nếu nhập vào số mệnh con người thì thường liên quan đến vấn đề trên để mà luận đoán cát hung. Dù cho có đặc biệt đến đâu, nhưng cũng không ngoài cái quy luật miếu hãm, suy vượng. Phá miếu ở Tý Ngọ, vượng ở Sửu Mùi, đắc ở Thìn Tuất và hãm ở Dần Thân Tỵ Hợi Mão Dậu. Luận về Phá Quân, thì trước hết vẫn phải tuân theo quy luật của Hung tinh. Đắc địa thì tốt, mà hãm địa thì xấu, cái sự Miếu-Hãm là việc đầu tiên cần quan tâm
 

Thanh Vũ

Thành viên nhiệt tình
(Tiếp)

MẠN ĐÀM VỀ SAO PHÁ QUÂN:

Không ngờ cái lá số PHÁ QUÂN của ta lại được anh hùng bốn phương chiếu cố. Bàn bạc mãi, rồi cuối cùng cũng vẫn chỉ là hai chữ NAN MINH!

Thế mới biết thế nào là "Phá Quân nhất diệu tính nan minh"...Đã biết nó là như thế , sao còn cố tìm cái sự MINH BẠCH ở trong cái NAN MINH nhỉ ? như thế có phải là nhọc công lắm sao?...

Tạm bàn về cái câu "Phá Quân nhất diệu tính nan minh”.

Có lẽ đối với Phá Quân, thì câu này đã gần như trở thành chân lý, trở thành câu cửa miệng mỗi khi nhắc đến Phá Quân. Thế rồi sách vở đua nhau phân tích, lý giải, trăm hoa đua nở, mỗi người một ý, rồi suy diễn, gán ghép đủ đường…nhiều quá thành ra..loạn, mà không biết rằng câu phú ấy ở đâu, gốc gác như thế nào?

Xin thưa, câu phú “Phá Quân nhất diệu tính nan minh” là câu phú nằm trong Nữ Mệnh Cốt Tủy Phú, cố nhân dùng nó để luận số nữ nhân! Chép nguyên cả cái đoạn ấy lên đây, nó như thế này này…:

Cự môn Thiên cơ vi phá đãng.
Thiên lương Nguyệt diệu nữ dâm bần.

Kình dương Hỏa tinh vi hạ tiện.
Văn xương Văn khúc phúc bất toàn.

Vũ khúc chi tinh vi quả tú.
Phá quân nhất diệu tính nan minh.

Tham lang nội ngoan đa dâm dật.
Thất sát trầm ngâm phúc bất vinh.


Hazzz…đối với Nữ Mệnh, cổ nhân đã nói rằng : Vũ Khúc chi tinh vi quả tú, Phá Quân nhất diệu tính nan minh. Vũ Khúc là sao Quả Tú chủ về cô đơn hình khắc, nhập nữ mệnh là tối kỵ – Phá Quân đơn thủ (nhất diệu) thì tính tình không minh bạch, gian hoạt khó lường. Chỉ có thế thôi, chứ chẳng có gì to tát đến nỗi phải gán tuốt tuồn tuột mọi thứ vào nó. Riêng về hai chữ NAN MINH, có hai nghĩa hiểu, nếu như nói về CON NGƯỜI PHÁ QUÂN thì chữ Nan Minh chỉ nghĩa là KHÔNG SÁNG SUỐT, KHÔNG MINH BẠCH. Còn nếu nói về SAO PHÁ QUÂN thì chỉ về nghĩa là KHÓ HIỂU.
Và nếu nói như một số quan điểm, một số sách cho rằng Phá Quân hay thay đổi vì nhị hợp với Thiên Cơ, cô đơn vì Cự Môn nhập Nô cung v.v... thì chưa hẳn đúng. Phân tích luận giải Thập Nhị Huyền Đồ không phải như thế! điều ấy chưa thể lý giải được về cái tình lý của Phá Quân.

Còn đối với Phá Quân, các quan điểm về sau này nhìn nhận có phần khiên cưỡng, mà lại khắt khe quá, rồi sau những phân tích - lý giải - suy diễn – gán ghép … Phá Quân trở thành một ông…tướng cướp chính hiệu!

Ta lần theo dấu chân cổ nhân ngày trước để tìm lại hình bóng Phá Quân, xem các bậc tiên hiền nhìn nhận Phá quân như thế nào?

Trong đẩu số toàn thư viết :

亥水屬文曲破軍之要地,乃文明清高之� ��,萬里派源之潔,如大川之澤不為焦枯. 居於亥位將入天河,是故為妙.破軍水 於子旺之鄉,如巨海之浪淜洶湧,可遠觀 而不可近倚,破軍是以居焉,若四墓之剋 ,充其瀰漫,必得武曲之金使其源流不絕 方為妙矣.

(Hợi thủy chúc văn khúc phá quân chi yếu địa, nãi văn minh thanh cao chi sĩ, vạn lí phái nguyên chi khiết, như đại xuyên chi trạch bất vi tiêu khô. Cư vu hợi vị tương nhập thiên hà, thị cố vi diệu. Phá quân thủy vu tử vượng chi hương, như cự hải chi lãng hung dũng, khả viễn quan nhi bất khả cận ỷ, phá quân thị dĩ cư yên, nhược tứ mộ chi khắc, sung kì di mạn, tất đắc vũ khúc chi kim sử kì nguyên lưu bất tuyệt phương vi diệu hĩ.)

Tạm Dịch : Cung Hợi thủy là đất yếu địa của Văn Khúc – Phá Quân, người văn minh, thanh cao chi sĩ, như suối nguồn thanh khiết chảy muôn dòng, như đầm rộng sông dài chẳng bao giờ khô cạn, Cư tại Hợi là nhập Thiên Hà, thực là huyền diệu thay! Phá Quân thuộc thủy, cung Tý là đất vượng, thì ào ào như sóng trên biển lớn, chỉ có thế đứng xa mà nhìn chứ chẳng thể cận kề. Phá Quân muốn yên, chỉ có Tứ Mộ khắc chế, (khi ấy) sung mãn tràn bờ (thủy của Phá), tất sẽ được Vũ Khúc (là Kim) sử dụng là làm thành nguồn chảy bất tuyệt khắp nơi rất là vi diệu!

Ví dụ một chút thế thôi, còn các cung khác, Phá Quân cũng có những bộ mặt riêng, nhưng nói chung thì cũng không có gì…NAN MINH, bởi nó cũng vẫn chỉ nằm trong cái vòng Miếu Hãm Sinh Hóa của trời đất vạn vật.

Còn đây là lời Phê lá số của tiền nhân về lá số Phá Quân (trích dẫn).

破軍入廟勢汪洋,專權掌握振八方,七殺 稜稜司正令,貪狼照合得相幫,分明有倚 無偏黨,文武林能佐廟廊,制服擎羊還有 氣,凜凜威風孰 敢當………

(Phá quân nhập miếu thế uông dương, chuyên quyền chưởng ác chấn bát phương, thất sát lăng lăng ti chánh lệnh, tham lang chiếu hợp đắc tương bang, phân minh hữu ỷ vô thiên đảng, văn vũ lâm năng tá miếu lang, chế phục kình dương hoàn hữu khí, lẫm lẫm uy phong thục cảm đương, ……)

Tạm dịch : Phá Quân nhập miếu thế như biển lớn, một tay chuyên quyền chấn bát phương, Có Thất Sát bên cạnh thi hành chính lệnh, có tham lang chiếu hợp tương trợ, Rõ ràng có thể dựa vào bè đảng, có Văn-Vũ trợ giúp dưới trướng, có khả năng chế phục Kinh Dương làm vũ khí. Lẫm liệt uy phong, là người xông pha gánh vác….

Đoạn kết cùa Phá Quân như thế này :


…..赫赫聲名振朔方,仕路悠悠八卦外,� ��名衣錦得還鄉,六旬幾歲將傷壽,花落� ��聲滿地香,雲暗鼎壺猶去遠,月明華表� ��歸忙.

(..hách hách thanh danh chấn sóc phương, sĩ lộ du du bát quái ngoại, công danh y cẩm đắc hoàn hương, lục tuần ki tuế tương thương thọ, hoa lạc vô thanh mãn địa hương, vân ám đỉnh hồ do khứ viễn, nguyệt minh hoa biểu hạc quy mang..)

Tạm dịch : Hiển hách thanh danh chấn một trời phương Bắc, đường quan nghiệp phiêu du không định (bát quái ngoại = nằm ngoài quy luật), Công danh thì Áo gấm về làng (y cầm hoàn hương), ngoài Lục Tuần thời thọ thương (bệnh), ra đi nhẹ nhàng như hoa rơi xuống đất không có tiếng động, trăng sáng, hoa nở, hạc rùa về đón người chơi xa…

Xem ra, đọc cái đoạn kết của Phá Quân, tự nhiên thấy lòng man mác… Đành rằng “Tử Sinh tạo hóa quyền”, nhưng ngẫm lại, Phá Quân “đội trời đạp đất” tung hoành khắp bốn phương, nhưng rồi thương tình lệ mãn quan sơn lệ” chỉ vì cái tính “dọc ngang nào biết trên đầu có ai” mà cuối cùng đến khi về già cũng chỉ được“Công danh Y cẩm đắc hoàn hương”. Cho đến tận lúc “cưỡi hạc chơi tiên” cũng vẫn là..Phá Quân, cũng vẫn cứ phải chọn cái thời khắc “nguyệt minh hoa biểu”….
 

Thanh Vũ

Thành viên nhiệt tình
4. SAO THIÊN ĐỒNG:

THIÊN ĐỒNG LUẬN
PHẦN 1: Thiên Đồng thuyết.

Thiên Đồng, ngôi sao trong Tử vi hệ đóng ở vị trí thứ 4 sau sao Tử vi, thuộc về Nam Đẩu tinh. Trong Tử vi, Thiên Đồng được coi là Phúc tinh. Trên trời là thần cai quản cung Phúc Đức, chủ về việc tế tự. Nhập mệnh Hóa khí là Phúc tinh.

Thiên Đồng thuộc Thủy, Miếu địa tại Dần - Thân, vượng địa tại Tý, đắc địa tại Mão-Tỵ-Hợi, hãm địa tại Ngọ-Dậu-Thìn-Tuất-Sửu-Mùi. Tại Dần–Thân thì đồng cung với Thiên Lương, Tại Tý-Ngọ thì đồng cung với Thái Âm, Tại Sửu–Mùi thì đồng cung với Cự Môn.

Đối với Cổ nhân nhìn nhận về sao Thiên Đồng cho rằng : Thiên Đồng – Thập nhị cung trung giai viết phúc.Tức là trong cả 12 cung, Thiên Đồng cư cung nào cũng giáng Phúc cho cung đó. Thiên Đồng nhập mệnh là người Thông minh, có tính thiện, bẩm tính ôn lương khoan hòa nhân hậu. Nếu nhập miếu thì Phú Quý Phúc Thọ toàn vẹn, nhược bằng hãm địa thì phiêu dạt, thoái tổ ly tông.

Vì Thiên Đồng là Phúc Thần, chủ quản việc tế tự, nên người Thiên Đồng thường ưa các việc tâm linh, chùa chiền lễ bái. Vì là Phúc Thần nên Thiên Đồng rất có lợi trong việc sinh sản, hôn nhân. Hạn đến Thiên Đồng khả dĩ có thể thêm nhân khẩu trong nhà.

Về hình dáng :
Người Thiên Đồng thường đầy đặn, nét mặt sáng sủa, da trắng. Hình tính phú viết về Thiên Đồng : "Thiên đồng phì mãn, mục tú thanh kì". (Người thiên đồng thì béo đầy, vẻ mặt thanh kỳ, mắt đẹp). Nhưng đấy là Thiên Đồng nhập Miếu. Còn nếu Hãm, hoặc gia ngộ Sát tinh Hình Kỵ thì thường có vết trên cơ thể, tuy da trắng nhưng không phì mãn, đặc biệt, mắt thường có điểm dị biệt. Phú nói “Thiên Đồng như Đà Kỵ phì mãn nhi mục miểu” (Thiên đồng giống như Đà Kỵ, béo đầy nhưng mắt thường có vẻ man mác buồn, hoặc có điểm khác lạ).
Trong Đẩu Số Tân Biên, Thái Thứ Lang viết “thân hình nở nang, hơi thấp, chân tay ngắn, da trắng, mặt vuông vắn đầy đặn”.

Với Nữ nhân, Thiên Đồng đắc địa nếu được hội cũng Quý Tinh, Xương Khúc, Khôi Việt thì Dung nhan mỹ ái. Phú nói “Phúc diệu phùng Việt Diệu, định thị hải hà dục tú” (Thiên Đồng mà gặp Thiên Việt, hẳn là người đẹp đẽ khoáng đạt như sống dài biển rộng)

Về tính tình :
Người Thiên Đồng thì Nhân hậu, từ thiện, thích làm việc thiện, ưa điều thiện. Thích các việc tâm linh, chùa chiền, lễ bái. Câu phú nối tiếng nói về tính tình của Thiên Đồng là Thiên Đồng hoán cải vô thường” (thiên đồng nhập mệnh, là người thay đổi không ổn định). Do vậy mà Thái Thứ Lang mới viết “Canh cải thất thường” “không bền chí, hay thay đổi ý kiến, công việc”.

Thiên Đồng là Phúc tinh, đương nhiên là mang tính thiện. Người Thiên Đồng sống hòa đồng, có phần dễ dãi, không ưa tranh đấu cừu thù. Ghét thị phi miệng tiếng (trừ một vài trường hợp đặc biệt). Nếu Đồng miếu nhập mệnh thì bẩm tính ôn hòa lương thiện, đẹp lòng mọi người. Nếu hội được Văn Tinh, Quý tinh thì Văn mặc tinh thông, hiền lành mà ngay thẳng. Nếu hãm địa mà lại ngộ sát tinh hội hợp thì là người ba phải, không có chính kiến. Thích phiêu lưu thay đổi. Điểm đặc tính chung của Thiên Đồng là khả năng dục tính mạnh, cả Nam lẫn nữ. Nếu hãm địa, gia sát, Nam Nữ thường dâm bôn.

Cổ nhân luận về sao Thiên Đồng
La Hồng Tiên tiến sĩ viết:
“Thiên đồng tinh chúc thủy, nãi nam phương đệ tứ tinh dã, vi phúc đức cung chi chủ tể. Phục vân: hóa phúc tối hỉ ngộ cát diệu, trợ phúc thiêm tường, vi nhân liêm khiết, mạo bẩm thanh kì. Hữu ki xu vô kháng kích, bất phạ thất sát tương xâm, bất phạ chư sát đồng triền. Hạn nhược phùng chi, nhất sanh đắc địa, thập nhị cung trung giai viết phúc, vô phá định vi tường”

Tạm dịch: Thiên Đồng thuộc thủy, là ngôi thứ 4 trong chòm Nam Đẩu, là chủ tể cung Phúc Đức. Lại nói rằng: Hóa Phúc (Thiên Đồng) tối hỉ nếu gặp được cát diệu, trợ phúc thêm điều lành. Là người liêm khiết, dung mạo vốn dĩ đẹp đẽ. Gặp cơ hội cũng không tranh giành vội vã. Chẳng sợ Thất Sát xâm hại, chẳng sợ các sát tinh khác vây bọc. Hạn nếu gặp được (thiên đồng), là được đắc địa, mười hai cung đều nói rằng được ban phúc. Nếu không bị phá, nhất định là điềm tốt.

Hi Di tổ sư viết:
“Thiên đồng nam đấu ích toán bảo sanh chi tinh, hóa lộc vi thiện, phùng cát vi tường, thân mệnh trị chi, chủ vi nhân khiêm tốn, bẩm tính ôn hòa. Tất từ ngạnh trực, văn mặc tinh thông, hữu kì chí vô hung kích. Bất kị thất sát tương xâm, bất úy chư hung đồng độ, thập nhị cung trung giai vi phúc luận. Ngộ tả hữu xương lương quý hiển, hỉ nhâm ất bính sanh nhân, tị hợi hãm địa. Bất nghi lục canh sanh nhân cư dậu địa, chung thân bất thủ. Hội tứ sát cư tị hợi vi hãm, tàn tật cô khắc. Nữ nhân phùng sát trùng phá, hình phu khắc tử. Lương Nguyệt trùng phá, hợp tác thiên phòng, tăng đạo nghi chi, chủ hưởng phúc”

Tạm dịch: Thiên Đồng thuộc Nam Đẩu tinh, lợi ích cho việc sinh lời, bảo trợ cho sinh sản. Hóa khí là Thiện Tinh, gặp được cát tinh thì tốt, nếu nhập vào Thân Mệnh, chủ về người khiêm tốn, bẩm tính ôn hòa, hiền mà ngay thẳng, văn mặc (học vấn, văn chương) tinh thông, gặp cơ hội cũng không vội vã. Không sợ Thất sát xâm hại, chẳng sợ hung tinh vây khốn. Mười hai cung đều luận là tốt. Gặp Tả Hữu Xương Lương thì quý hiển, rất tốt đối với người tuổi Nhâm, tuổi Bính. Đắc địa tại Tỵ Hợi, không nên gặp ở người tuổi Canh mà lại cư Dậu, nếu gặp như thế thì Chung thân bất thủ (không giữ được tiết nghĩa). Nếu hội cung Tứ Sát mà đóng ở Tỵ Hợi là xấu, ắt tàn tật cô khắc. Nếu Nữ nhân có Thiên Đồng mà gặp Sát tinh, trùng phùng với Phá, ắt hình phu khắc tử. Nếu Lương Nguyệt trùng Phá, dễ làm lẽ mọn, nên làm tăng đạo, thì được hưởng phúc.
Vân Đằng Thái Thứ Lang viết:

“……
− Đồng Miếu địa, Vượng địa hay Đắc địa là người thông minh, có tính khoan hòa, nhân hậu, từ thiện, nhưng không quả quyết, không bền chí, hay thay đổi ý kiến, công việc. Tuy vậy, vẫn được hưởng giàu sang và phúc thọ song toàn.
− Đồng Đắc địa tại Tỵ, Hợi, lại là người thích phiêu lưu, nay đây mai đó, và hay thay đổi chỗ ở.
− Đồng Đắc địa tại Tỵ, Hợi, khắc tuổi Đinh, Canh, vậy cho nên tuổi Đinh, Canh mà cung Mệnh an tại Tỵ, Hợi, có Đồng tọa thủ, tất suốt đời chẳng mấy khi được xứng ý toại lòng.
− Đồng Miếu địa, Vượng địa hay Đắc địa, gặp nhiều sao sáng sủa tốt đẹp hội hợp, nhất là Xương, Khúc, Khôi, Việt, Tả, Hữu, Khoa, Quyền, Lộc, chắc chắn là được hưởng phú quí đến tột bực và có uy danh lừng lẫy.
− Đồng Miếu địa, Vượng địa hay Đắc địa, gặp nhiều sao mờ ám xấu xa hội hợp, nhất là Sát tinh, Hình tuy suốt đời vẫn được no cơm ấm áo, nhưng lao tâm khổ tứ, sức khỏe lại suy kém, thường có bệnh tật hoặc ở mắt, hoặc ở bộ tiêu hóa.
− Đồng Hãm địa là người kém thông minh và nông nổi, cũng có tính nhân hậu, nhưng thay đổi thất thường, không quả quyết, không có định kiến, làm việc gì rồi cũng chóng chán, lại thích chơi bời ăn uống, tuy sống lâu nhưng rất vất vả, thường phải ly tổ bôn ba, luôn luôn lo lắng vì sinh kế, lại hay mắc tiếng thị phi. Cung Mệnh có Đồng Hãm địa tọa thủ, nên đi buôn.
− Đồng Hãm địa, Thìn, Tuất, Sửu, Mùi, lại là người hay nói khoác lác và không cẩn ngôn.
− Đồng Hãm địa Ngọ, là người có óc kinh doanh.
− Đồng Hãm địa Tuất, Ngọ ứng hợp với tuổi Đinh. Vậy cho nên tuổi Đinh mà cung Mệnh an tại Tuất, Ngọ có Đồng tọa thủ, tất nhiên là khá giả.
− Đồng Hãm địa gặp nhiều sao sáng sủa hội hợp, nhất là Xương Khúc, Khôi, Việt, Tả, Hữu, Khoa, Quyền, Lộc phải đoán là cũng có công danh và tiền tài.
− Đồng Hãm địa gặp nhiều sao mờ ám xấu xa hội hợp, nhất là Sát tinh, Kỵ, Hình. Thật là suốt đời lao khổ phải lang thang phiêu bạt, thường có bệnh tật khó chữa, hoặc ở mắt, hoặc ở bộ tiêu hóa, lại hay mắc tai nạn và không thể sống lâu được.

NAM MỆNH:
Đồng Miếu địa, Vượng địa hay Đắc địa thủ Mệnh, gặp nhiều sao sáng sủa tốt đẹp hội hợp, tất được hưởng phú quí đến tột bậc, có uy danh lừng lẫy. Phúc thọ song toàn.
− Đồng Hãm địa gặp nhiều sao mờ ám xấu xa hội hợp, thật là suốt đời lao khổ, phải lang thang phiêu bạt, thường có bệnh tật khó chữa, hoặc ở mắt, hoặc ở bộ tiêu hóa, lại hay mắc tai nạn và không thể sống lâu được.

NỮ MỆNH:
− Đồng Miếu địa, Vượng địa hay Đắc địa, Mão thủ Mệnh, là người đảm đang, có đức độ, rất vượng phu ích tử.
− Đồng Đắc địa, Tỵ, Hợi, là người đảm đang, nhưng đa dâm, thường phải sớm ly tổ.
− Đồng Miếu địa, Vượng địa hay Đắc địa, tất được hưởng giàu sang và sống lâu. Đây nếu Đồng gặp nhiều sao mờ ám xấu xa hội hợp, chắc chắn là được hưởng phú quí đến tột bực, và phúc thọ song toàn.
− Đồng Đắc địa, Tỵ, Hợi, hay Hãm địa, phải muộn lập gia đình hay lấy kế lấy lẽ, mới tránh buồn thương.
− Đồng Hãm địa là người hoang đãng dâm dật, tuy được no cơm ấm áo và sống lâu, nhưng suốt đời vất vả, thường phải sớm ly tổ, bôn ba, nay đây mai đó. Đây, nếu Đồng gặp nhiều sao mờ ám xấu xa hội hợp, thật là chung thân cùng khốn cô đơn, khắc chồng hại con, phải lang thang phiêu bạt, lại có bệnh tật khó chữa, hoặc ở mắt, hoặc ở bộ tiêu hóa, hoặc ở tử cung và hay mắc tai nạn: tuổi thọ cũng bị chiết giảm. …………”
 
Chỉnh sửa cuối:

Thanh Vũ

Thành viên nhiệt tình
(Tiếp)

PHẦN 2 : Thiên Đồng Phụ Luận
Như trên đã nói về các điều khái quát của Thiên Đồng. Cổ nhân cho rằng, Thiên Đồng là một Phúc Tinh, không sợ Hung Tinh Thất Sát, chẳng sợ các hung tinh khác vây bọc. Lại cho rằng trên cả 12 cung, cung nào cũng ban phúc.

Xin Phụ luận về mấy luận điểm trên đây:

Thứ nhất : Số Mệnh người Thiên Đồng như thế nào?

Thiên Đồng nhập mệnh, vốn dĩ là Phúc Thiện Tinh, hợp với nhóm văn tinh, quý tinh, cho nên nếu đắc cách hội được Tả Hữu, Xương Khúc thì văn mặc tinh thông, kiến văn quảng bác, cổ nhân nói rằng “Thiên Đồng dữ Xương Khúc tụ củng – Chủ hoa vinh” - Một đời quý hiển nhàn nhã. Nếu hội được thêm Khoa Quyền Lộc Quý, thì Phú Quý toàn vẹn ít ai bằng. Phú viết rằng “Thiên Đồng hội cát thọ nguyên thời”, nếu Thiên Đồng tránh xa được sát tinh, dâm tinh. Hội cát tinh thì tuổi thọ, phúc ấm cao dày.

Nhược bằng hãm địa, thì phiêu dạt, thoái tổ ly tông, Nếu hãm mà gặp sát tinh, ắt tàn tật, cô khắc hoặc mang bệnh nan y trong người. Nếu hãm mà gặp Dâm tinh thì hoang dâm vô độ, tuổi thọ chiết giảm. Phúc ấm suy đồi.
Thiên Đồng, với cổ nhân có 2 tính xấu :

+ Thứ nhất là cái sự hay thay đổi, không ổn định. Luận về Thiên Đồng, cổ nhân phê rằng :” Thiên Đồng nhập mệnh, hoán cải vô thường”. Tức là thay đổi không ổn định, không biết đâu mà lần.

+ Thứ hai là công danh, tài lộc thường chậm muộn. Cổ nhân phê rằng Thiên Đồng bạch thủ thành gia(Thiên đồng – tay trắng làm nên cơ nghiệp). hay cụ thể hơn “Thiên đồng bạch thủ sinh tài vãn phát”. (thiên đồng tay trắng làm ra tiền bạc, nhưng cuối đời mới phát).
Về đặc tính thứ nhất, cổ thư đều nói rằng thiên đồng canh cải thất thường”, cái sự biến đổi của Thiên Đồng không thể lường trước được. Nhưng không nên hiểu theo nghĩa hẹp là TÍNH NGƯỜI. Đúng là về TÍNH thì người Thiên Đồng cũng rất hay thay đổi, mục tiêu, chí hướng thường không rõ ràng. Dễ quên, dễ tha thứ, dễ bị người khác làm cho lung lạc. Còn trên phương diện tổng quát, cái sự “hoán cải vô thường” nó thể hiện cả trên số mệnh. Người Thiên Đồng thì công danh, việc làm, gia đình, chỗ ở đều có xu hướng không ổn định. Trong các thế đứng của Thiên Đồng, thì tại Tỵ Hợi, Thiên Đồng đối cung với Thiên Lương, tạo ra cách “Đồng Lương Tỵ Hợi”, theo cách này thì “Nam đa lãng đãng, nữ đa dâm”, Nam thì phiêu dạt giang hồ nơi chân trời góc bể, nữ thì dâm bôn. Cái câu “nam đa lãng đãng” chỉ rằng con người phiêu du, phiêu lãng không có gì ổn định. Đây cũng là một đặc tính xấu của Thiên đồng.
 

Thanh Vũ

Thành viên nhiệt tình
5. THAM VŨ ĐỒNG HÀNH:

Trong Tử vi, thuật ngữ CÁCH CỤC được đưa lên hành đầu, chiếm vai trò rất quan trọng trong giải đoán. Hi Di tổ sư đã viết trong cốt tủy phú:
“Tiên minh cách cục, thứ khán chúng tinh”
Trước hết phải xem xét rõ ràng cáchc cục, rồi sau mới xem đến các chúng tinh khác. Bởi vậy khi giải đoán tử vi, cần phải nắm rõ cách cục của lá số thì mới có được cái nhìn toàn cảnh. Trong bài viết này, tôi phụ luận thêm về cách THAM VŨ ĐỒNG HÀNH.
Tham Vũ đồng hành, có nghĩa khi Tham Lang Vũ Khúc cùng đi với nhau (đồng hành). Theo các an sao, Tham Lang và Vũ Khúc chỉ có thể “đồng hành” trong 4 cung tứ mộ Thìn Tuất Sửu Mùi. Trong đó tại Sửu Mùi thì đồng cung là Chính cách, tại Thìn Tuất thì đối cung là Bàng cách.
Trước hết, để nghiên cứu cách này, cần phải tìm hiểu về đặc tính của sao Tham Lang và Vũ Khúc.

Sao Tham Lang:
La Hồng Tiên viết trong đẩu số toàn thư:
“…Tham Lang thuộc hành thuỷ, Bắc Đẩu tinh giải ách chi thần. Hoá khí sao này là Đào Hoa, ưa cao ngâm phiêu lãng, khôn khéo thật khôn khéo mà vụng dại cũng thật vụng dại. Ơ miếu địa có thể vừa tạo phúc vừa gây hoạ. Hội cùng Phá Quân thành ra mê hoa mến tửu mà táng mạng, cùng Lộc Tồn tốt lành, hội Song Hao mọi việc thành hư hoa bố láo, gặp Liêm Trinh hãm địa tù tội, thấy Thất Sát dễ bị tai nạn quan tụng. Dương Đà xung phá có bệnh trĩ, Hình Kị xung phá nhiều vết thương, vết sẹo. Tham Lang thủ Thân mệnh cung con trai đa tình, con gái lẳng lơ. Đa số có tính ngôn quá kỳ thực, chơi với ai cần trung hậu thì dở thói bạc bẽo, với kẻ đáng lý bạc bẽo được thì lại trung hậu. Sách có câu: Thất Sát thủ thân chung thị yểu, Tham Lang nhập miếu tất vi sương (nghĩa là Thất Sát thủ Thân thường chết yểu, Tham Lang nhập miếu, con gái dễ bị giang hồ). Nếu các cung Thân - Mệnh có Phá Quân đồng cư (Tham ở Mệnh, Phá ở Thân hoặc ngược lại) hoặc từ tam hợp hội tụ dù ở sinh vương địa, đàn ông say sưa, rượu chè cờ bạc, tính khí ngang ngược, du đãng, đàn bà dâm bôn theo trai đi hoang, nặng căn số có thể rơi vào lầu xanh. Đặt biệt sao Tham Lang mà ngộ Không Vong kết quả ngược hẳn rất đoan chính. Tham Lang đồng cư với Vũ Khúc, ích kỷ tham lam, không có bụng giúp người khác. Đi cặp cùng Thất Sát là đồ tể. Hội Dương Đà thành con quỉ phong lưu. Tụ cùng Xương Khúc đa hư thiểu thực. Ở hãm địa phùng sinh có thể quật khởi một thời kỳ. Duy có đi với Hoả Linh là phú quí, ở Mệnh hay Tài Bạch rất hay….”

Về Tham Lang, Hi Di tổ có viết :
“…Tham Lang tinh, Khí thuộc Mộc, Thể thuộc Thuỷ cho nên hoá khí là Đào Hoa, chủ hoạ phúc chi thần. Ở số mệnh ưa phóng đãng, gặp cát tinh thì chủ phú quí, gặp hung tinh chủ hư hoa (khoác lác). Tính tình cương mãnh, có mưu cơ, bồng bềnh chìm nổi, yêu ghét khó lường, thân hình thấp, da trắng. Cư miếu địa ngộ Hoả Linh tinh vũ chức quyền quí. Khi hãm địa thường ưa chuyện thần tiên ca vịnh, người tuổi Mậu - Kỷ hợp cục gặp Quân- Tướng thêm trường thọ. Bị Phá Sát xung hãm phiêu bồng. Số đàn bà thường bất khiết trinh…”
Nhiều người thắc mắc không biết Tham Lang thuộc Mộc hay thuộc Thủy?
Trong Đẩu số toàn thư của HiDi tổ viết : "Tham Lang Khí thuộc Mộc, Thể thuộc Thủy, Hóa khí vi Đào Hoa, Chủ Họa Phúc chi thần..." Nghĩa là Tham lang Thuộc Thủy, hóa Khí thuộc Mộc, là Đào Hoa chi tinh (dâm tinh). Cho nên nếu Tử Vi gặp Tham lang là cách "Đào Hoa phạm chủ", hay Tham lang cư Tý Hợi là cách "Phiếm thủy Đào Hoa". tức là Tham lang là một hóa thân của sao Đào Hoa, nó là sao lưỡng tính vừa Thủy, vừa Mộc. Trong Tử Vi, có ba sao mang tính chất Đào Hoa :
- Đào Hoa
- Tham Lang
- Liêm Trinh (Liêm trinh chỉ khi nào nhập mệnh mới được gọi là Đào Hoa, còn tử vi VN có 1 sao là sao Đào hoa thì ở đâu cũng vẫn là...Đào Hoa).

Sao Vũ Khúc:
La Hồng Tiên viết trong đẩu số toàn thư:
“…Vũ Khúc là sao thứ sáu trong chòm Bắc Đẩu, thuộc Kim, chủ về tiền bạc ở cung Tài Bạch, đồng cung với Thiên Phủ là thọ. Tính khí quả quyết, cương nghị, hỉ nộ đều có, phúc lộc dễ mà tai ương cũng dễ. Được lộc Mã hội tụ thì tiền bạc nhiều. Hãm địa gặp sao Tham Lang đi cặp trở nên người khó chơi, tham lam, bủn xỉn. Hội cùng Phá Quân, tiền đến tay là hết. Gặp hung tinh hội tụ thì tác hoạ, gặp cát tinh hội tụ tốt lành…”

Về Vũ Khúc, Hi Di tổ có viết :

“….Vũ Khúc thuộc hành kim, trên trời coi về tuổi thọ, vào số người chủ quản tài bạch, rất sợ bị kiềm chế lạc hãm. Rất cần Lộc Tồn và ưa Thái Âm, lấy hai sao Thiên Phủ, Thiên Lương làm trợ lực. Gặp Lộc Mã thì phát tài, hội cùng Tham Lang thiếu niên bất lợi. Nếu đồng cung Thất Sát, Hoả Tinh vì tiền bạc mà bị hại. Ngộ Dương Đà thì cô khắc. Gặp Phá Quân khó bề hiển đạt. Vũ Khúc thủ mệnh là người cương cường quả đoán, tuổi Giáp, tuổi Kỷ phúc hậu, xuất tướng nhập tướng. Nữ mệnh có nhiều cát tinh là mệnh phụ, bị xung phá tất cô khắc…”

Cách Tham Vũ đồng hành:
Vì các đặc tính như trên, cho nên khi kết hợp với nhau, do tính chất khắc chế nên thường là lúc thiếu niên chịu nhiều vất vả. Gặp cách này là người tất tả ngược xuôi, cô qủa. Đây là mẫu người năng động, kỹ càng, rất có lợi về thương nghiệp. Nhưng không lúc nào được an nhàn, may chăng về cuối đời mới có thể yên vị.

Đặc biệt Tham Vũ đồng hành tại Tứ Mộ, rất cần gặp hai sao Hỏa Linh để trợ cách, gặp hai sao này thì rất dễ thành công lớn trong cuộc đời. Tuy vậy trong cách này cũng cần phân biệt, rõ ràng mới luận đoán được sâu hơn, căn cứ vào các lời giải đoán của cổ nhân:

- Tham Vũ tiền bần nhi hậu phú (Tham Vũ nhập mệnh, trước nghèo, sau giàu)
- Tham Hỏa tương phùng, phú ông chi cách (Tham lang gặp Hỏa tinh là cách Phú ông giàu có)
- Tham Linh tịnh thủ, tướng tướng chi danh. (có Tham Lang ngộ Linh tinh, làm tướng nổi danh)
- Tham Vũ đồng hành, vãn cảnh biên di thần phục. (lưu danh ngoài biên ải để cho láng giềng phải khuất phục, nhưng muộn màng)
- Tham lang Ngộ Hỏa tinh, cư miếu vượng, danh trấn chư bang. (võ nghiệp hiển đạt, lưu danh nơi biên ải, uy danh chấn động các nước láng giềng)
Người Tham Vũ đồng hành không hẳn chỉ là thành công trong thương trường, mà trong lĩnh vực quân đội, chỉ huy, cũng rất thành công.
Tham Lang khi miếu vượng rất cần sự trợ giúp của Hỏa, Linh. Khi Tham gặp Hỏa là cách "Tham Hỏa Tương Phùng", sẽ giầu có. Nhưng Khi Tham gặp Linh sẽ là cách "Tham Linh tịnh thủ". đây là cách hiển đạt về võ nghiệp.
Nếu Tham gặp cả hai sao Hỏa Linh thì sao? - Sẽ là "hào phú gia tư, hấu bá quý" có cả phú lẫn quý.
Khi Tham lang đi với Vũ khúc, chế hóa lẫn nhau mà làm thành cách "tiền bần hậu phú".

Tổng kết lại :
1. Tham + Vũ + Hỏa : tiền vận nghèo, vất vả, nhưng sau trung vận sẽ phát phú, giàu có. Đây là đệ nhất cách Doanh thương.
2. Nếu Tham + Vũ + Linh : Tiền vận lao đao, Nam chinh Bắc chiến, ngược xuôi bôn ba. Trung vận nổi danh, nhưng dù nổi danh vân không tránh khỏi vất vả. Đây là cách Binh gia, anh hùng biên ải.
3. Nếu Tham + Vũ + Hỏa + Linh : Có hai mẫu người :
- Thứ nhất : Mẫu người thành công nhờ doanh thương : Tiền vận lao đao, nghèo, vất vả. thường là quân nhân hay theo binh nghiệp. Trung vận có thay đổi chuyển hướng, chuyện làm ăn phấn phát mà trở nên giầu có.
- Thứ hai : Mẫu người thành công nhờ Binh nghiệp : tiền vận bôn bao lao toái, chinh chiến ngược xuôi, Trung vận nổi danh nhưng vất vả, Hậu vận Phú Quý gồm hai. Giàu có uy danh đủ cả. Tất nhiên, thời đại này, việc chinh chiến vốn ít có, Binh nghiệp có thể hiểu là không cứ phải là quân nhân, nhưng là một công việc gì đó mang tính chất giồng như Binh nghiệp.
 

Thanh Vũ

Thành viên nhiệt tình
6. Cự môn nhàn đàm

Cự môn
là sao thứ 2 trong Bắc đẩu thất tinh. Thuộc thủy (có thuyết cho rằng Thủy đới kim). Là sao thiên về Âm tính. Bởi thế, hóa khí của nó là Ám tinh (che ám). Nhập Thân Mệnh là Hung tinh, chủ về thị phi khẩu thiệt, chính vì vậy mà phú mới viết rằng “Cự môn định chủ thị phi”.

Nhưng phàm là chính tinh, thì kiểu gì cũng phải có uy lực, tức là cũng phải có mặt tốt. Một trong những cái tốt của Cự môn là lợi tài, lợi cho việc tranh đoạt, hoạt ngôn đa ngữ. Bởi Cự môn được coi là Thần chuyên trông coi về Phẩm chất của vạn vật. Tức là chuyên về nhận xét cái tốt, cái xấu của vạn vật. Cho nên mới gán cho nó cái tiếng “Thị Phi”. Cũng chính vì điểm này mà phát sinh nhiều quan điểm chưa được đánh giá đúng mức về Cự Môn.

Luận về Cự Môn thì có 2 tính chất đại biểu rất quan trọng đó là “Khẩu thiệt thị phi” và “Minh tranh ám đấu”.

Khẩu thiệt thị phi, tức là nói đến việc hay dính dấp vào chuyện miệng lưỡi – đúng sai, hay tiếp xúc, hay gặp phải những chuyện liên quan đến lời ăn tiếng nói, đến chuyện đúng sai của cuộc sống. Điều này cần phải hiểu cho đúng, vì không thể có định kiến cứ cho rằng “khẩu thiệt thị phi” là đặc tính không tốt! nhưng nên nhớ rằng cái gì cũng có mặt lợi mặt hại, ví thử như nếu làm những nghề về thương trường, về biện hộ, cần đến sự ăn nói linh hoạt, thì đôi khi sự biến báo ngôn ngữ của Cự Môn lại là một đặc tính quý giá.

Minh tranh ám đấu, tức là nói đến cái sự tranh giành quyết liệt ! điều này cũng không có gì là lạ, khi ngôn ngữ giảo hoạt, hùng biện, thì không dễ gì chịu lùi bước. Phàm đã là chuyện tranh cãi thì đương nhiên cần phải cọ sát đề giành phần thắng. Nhưng cũng còn kèm theo 1 nghĩa nữa cần để ý, đó là cái tính không chịu nhường nhịn. Khi xảy ra tranh giành thường quyết liệt, khó lòng kiềm chế bản thân. Và cũng chính vì thế mà mắc cái tiếng “thị phi”. Hai tính chất này có quan hệ hữu cơ với nhau, cần chú ý khi luận đoán.

Cũng như nguyên tắc thông thường, khi luận về tinh diệu thì cái sự Miếu-Hãm là vô cũng quan trọng. Bởi cũng một tính chất như thế, nhưng Miếu thì khả dụng, mà Hãm thì sinh tai.

Cự môn Miếu ở Mão Dậu, Vượng ở Tý Ngọ Dần, đắc địa ở Thân Hợi. Đều là những đất tốt có thể làm cho cái tính “thị phi” “tranh đoạt” trở thành hữu dụng. Chủ về uy quyền, tài lộc. Còn những đất hãm của Cự Môn là Thìn Tuất Sửu Mùi Tỵ. Chỉ chuyên về thị phi chiêu oán, quan phi kiện tụng.

Trong đẩu số, cổ nhân viết về Cự Môn :
“Tại thân mệnh nhất sinh chiêu khẩu thiệt chi phi; tại huynh đệ tắc cốt nhục tham thương; tại phu thê chủ vu cách giác, sinh ly tử biệt, túng phu thê hữu đối, bất miễn ô danh thất tiết; tại tử tức tổn hậu phương chiêu, tuy hữu nhi vô; tại tài bạch hữu tranh cạnh chi ý; tại tật ách ngộ hình kỵ, nhãn mục chi tai, sát lâm chủ tàn tật; tại thiên di tắc chiêu thị phi; tại nô bộc tắc đa oán nghịch; tại quan lộc chủ chiêu hình trượng; tại điền trạch tắc phá đãng tổ nghiệp; tại phúc đức kỳ họa sảo khinh; tại phụ mẫu tắc tao khí trịch”

Nghĩa là :

Tại Thân Mệnh một đời chiêu khẩu thiệt thị phi,
Tại Huynh Đệ thì anh em chợ búa với nhau,
Tại Phu Thê thì chủ về chia cách, sinh ly tử biệt, không khỏi ô danh thất tiết.
Tại Tử Tức thì không có hậu, tuy có mà như không.
Tại Tài Bạch thì ắt có sự tranh giành.
Tại Tật Ách mà gặp Hình kỵ, mắt có tật, thêm sát tinh mà lâm vào thì chủ tàn tật,
Tại Thiên Di thì ứt chiêu thị phi,
Tại Nô Bộc ắt là nhiều oán nghịch.
Tại Quan Lộc chủ về gặp hình trượng (pháp luật).
Tài Điền Trạch thì phá đãng tổ nghiệp,
Tại Phúc Đức họa không phải là nhỏ,
Tại Phụ Mẫu thì dễ bị bỏ rơi

Xem như trên thì thấy rằng mười hai cung Cự môn đóng đều không có chỗ nào tốt. Nếu nhận xét như thế thì cũng có phần khắt khe quá. Bởi như đã nói, còn phải căn cứ vào xem Miếu Hãm thế nào. Đến như Trần Đoàn lão tổ cũng còn phải nhận xét “Chí Hợi Dần Tỵ Thân, tuy phú quý diệc bất nại cửu” Tức là tại Dần-Thân, Hợi-Tỵ tuy có phú quý mà không bền.

Khi Cự môn nhập Thân mệnh, Trần Đoàn lão tổ nhận xét “chưởng chấp thị phi, chủ vu ám muội, nghi thị đa phi, khi man thiên địa, tiến thối lưỡng nan. Kì tính tắc diện thị bối phi, lục thân quả hợp, giao nhân sơ thiện chung ác” – Tức : “nắm cái sự đúng sai trong tay, mà lại chủ về ám muội, đúng thì nghi ngờ, mà nhiều điều sai trái. Khinh dối cả đất trời, tiến thoái đều khó. Về Tính thì trước mặt bảo đúng mà sau lưng bảo sai, không hợp với lục thân, giao kết với người thì ban đầu thiện mà về sau ác”.

Sở dĩ trong 12 cung, Cự môn không được cung nào tốt, bởi chính tại cái tính “khẩu thiệt thị phi” “minh tranh ám đấu” mà ra cả. Ta cũng phải nhìn nhận cho rõ, tính này có thể lợi ngoài xã hội nhưng với lục thân gia đình thì tuyệt nhiên không hợp. Bởi thể mới nói “Lục thân quả hợp”.

Nhưng ngoài những đặc tính trên, thì Cự môn cũng chủ về Tài khí. VÌ bản thân Cự môn là ngôi thứ 2 trong Bắc đẩu thất tinh, trong các môn thuật số khác thì Cự Môn được coi là Thiên Y, chủ về vật chất. Cho nên mới nói Cự lợi tài. Nhưng cũng cần phải chú ý, cái Lợi về Tài của Cự là do hệ quả của 2 tính chất trên mang lại, chứ tuyệt không phải là trực tiếp từ tính chất mà có giống như các Tài tinh khác. Vì thế mà chỉ dám nói là Lợi Tài, mà cổ nhân không dám phê là Tài Tinh.

Về Mệnh số con người, dù thế nào đi nữa, nhưng khi có Cự môn nhập vào Mệnh Thân, ắt sẽ không thể toàn vẹn. Bởi kể cả khi nhập Miếu cũng chỉ là Hư Cát. Cuộc đời ít nhiều sẽ có nhưng điều không được mỹ mãn, đặc biệt là trong quan hệ gia đình. Hơn thế nữa, vận trình cuộc đời ắt sẽ thăng trầm, ít nhất phải qua gian khó một thời mới mong thành nghiệp, luận về chỗ này, cổ nhân chỉ có một câu “kinh lịch gian tân”. Tùy thời xử thế, nên hay không là ở chỗ có HỢP hay không. Tinh diệu thì vốn có Miếu Hãm, mà sự đời thì cũng có ĐẮC-THẤT. Quy luật vận hành của tinh diệu cũng là quy luật vận hành của đời người. Muốn biết được thì nên xem xét cái chu kỳ vận hành của Cự và chòm Bắc đẩu trên 12 cung ắt sẽ sáng tỏ.

Về chính danh thì Cự Môn chỉ có :
THẠCH TRUNG ẨN NGỌC
CỰ CƠ MÃO DẬU

Ngoài ra, còn xét thêm cách CỰ-NHẬT, vốn sinh ra từ thế đứng của CỰ MÔN tương đối với Thái Dương.

(còn tiếp)
 
Chỉnh sửa cuối:

Thanh Vũ

Thành viên nhiệt tình
Bàn về vấn đề “Cự môn kỳ cách vi đại danh”:

Cổ thư để lại khi viết về Cự Môn có viết tại mệnh bàn chủ khẩu thiệt thị phi, minh tranh ám đấu. Nhược hóa quyền tinh, tắc vi nhân sư biểu, thanh danh viễn dương. Dữ thái dương hội chiếu, tắc quang minh lỗi lạc, năng phú năng quý– nghĩa là : Cự môn tại mệnh, chủ về khẩu thiệt thị phi, minh tranh ám đấu. Nhưng nếu hóa Quyền tinh, thì ắt sẽ là kẻ mô phạm, danh tiếng bay xa. Cùng với Thái Dương hội chiếu thì quang minh lỗi lạc, lại vừa Phú vừa Quý”.

Cự môn Hóa thành Quyền tinh khi nào? Xem trong bảng tứ Hóa thì thấy :

Cự hóa Lộc ở tuổi Tân
Cự hóa Quyền ở tuổi Quý
Cự hóa Kỵ ở tuổi Đinh
Cự môn không hóa Khoa!

Đây là Chính thể Hóa cách, đừng nhầm với việc phát biểu Cự Môn – Hóa Quyền. Tức là Cự môn gặp Hóa Quyền hay hội Hóa quyền. Như vậy, câu “nhược hóa quyền tinh, tắc vi nhân sư biểu, thanh danh viễn dương” – là nói đến ý rằng, với người tuổi Quý thì chính thể Cự môn sẽ hóa thành Hóa Quyền, là đắc cách. Còn với người tuổi Tân, vì cách an Tứ Hóa "Tân : Cự - Nhật - Văn Khúc - Văn Xương” – vậy, nếu mệnh người tuổi Tân mà đóng ở tại 4 cung Dần-Thân, Tỵ-Hợi thì đắc cách vì sẽ hội được Lộc-Quyền, cũng là một trường hợp xem xét.

Mà như ở phần trước đã nói : Cự Môn chủ về Thị Phi Khẩu Thiệt, tức cũng chủ về danh tiếng, nếu Cự Miếu Vượng là thành đắc dụng, lại hóa Quyền, thì danh tiếng bay xa. Nếu thêm Quế Hoa, Thiên Ất, đặc biệt là Kình dương nhập miếu hội chiếu thì ắt hẳn danh tiếng không phải là nhỏ, vì “kình dương nhập miếu – cái thế văn chương”. Vì thế Phú Trần đoàn mới luận “Cự Kình Hóa Lộc Tuất Thìn Cung – Tân Quý sinh nhân Phú Quý đồng – Đắc vận thanh danh lưu viễn xứ - Chỉ khủng tha hương lão bất hồi” – Cự Kình Hóa Lộc ở tại Tuất-Thìn 2 cung, nếu người tuổi Tân, tuổi Quý thì được phú quý, nếu đắc vận gặp thời thì tiếng tăm lừng lẫy xứ người, nhưng chỉ sợ rằng sẽ rơi vào cảnh tha hương đến già chẳng về được.

Có người hỏi, Cự môn có phải là kẻ học giỏi không? Chúng ta nhìn vào cách Hóa của Cự, thấy Cự không hóa Khoa. Thường cái sự khoa bảng của Cự phần lớn đem lại ở tá tinh. Chứ tuyệt nhiên bản thân Cự không phải là sao học vấn, nếu ai đó cho rằng Cự Môn là sao học vấn thì không đúng. Không nên nhầm danh tiếng với học vấn, có thể nổi danh, nhưng bằng cấp thì lại là câu chuyện khác. Vậy, người Cự môn mà muốn thành danh trong học nghiệp, nhất định không thể rời xa bọn Văn tinh Quý tinh. Nhưng khổ nỗi, khi Cự hội được bọn văn tinh, thì dễ thành nhà mô phạm, lại không có lợi cho tiền tài. Cho nên ở một phương diện nào đó, nếu lưỡng toàn cả hai, thì cần Quý tinh hội hợp và Hình Tướng Ấn, thì có thể làm đắc dụng cái ngôn ngữ của Cự mà ra xã hội tranh giành lấy phú quý công danh.

Ta hãy điểm qua sự vận hành của Cự Môn

Cự môn tại Tý – Ngọ cung :

Đây chính là cách “Thạch Trung ẩn ngọc”! Cái cách mà bị bọn hậu sinh suy diễn nhiều nhất. Nào là phải gặp Tuần Triệt “mới mong sáng rõ”, hoặc “phải có hung tinh mới mong phá đá để lộ ngọc ra ngoài”…đủ trò. Nhưng thực chất về cách này thế nào?

Cổ thư viết “Cự Môn Tý Ngọ Lộc Khoa Quyền, Thạch trung ẩn ngọc phúc hưng long”, Cự Môn ở Tý Ngọ đã đành, nhưng điểu kiện đủ để được hưởng cái chữ “phúc hưng long” (phúc lớn lao) thì phải có Lộc-Khoa-Quyền. Tức là phải có Cát Hóa. Vậy thì cái quan điểm “cần tuần triệt” “cần hung tinh” là quan điểm suy diễn, bởi khi gặp Tuần Triệt sẽ bị phá cách. Thực ra cổ nhân nói “thạch trung ẩn ngọc” tức là hình ảnh ẩn dụ vậy thôi, chứ chẳng có cục đá, viên ngọc nào ở đây cả. Ý cổ nhân chỉ muốn nói rằng, cách này là các “nghi ẩn bất nghi hiển”, nên ẩn đi mà không nên hiện ra. Nguyên do là vì tại Tý Ngọ, vốn là đất vượng của Cự. Nhưng bản chất thì Cự là Hung tinh, tính thì là Thị Phi Khẩu Thiệt, cái tính này là điểm cực bất lợi trong cuộc sống, đặc biệt là trong quan trường. Vậy khi Cự vượng địa sẽ được đắc dụng, tức là tính thị phi khẩu thiệt kia sẽ phải ẩn đi, phải mất đi. Giống như viên ngọc nằm sâu trong đá vậy.

Riêng phân tích về cách này, cũng cần nói rõ thêm về các điều kiện phối hợp của nó :

  • Gặp Quyền (hoặc) Lộc là Thượng cách
  • Gặp Lộc tồn là Thứ cách.
  • Không có Lộc tồn, chẳng có Hóa cát là tầm thường.

Đặc biệt, trái với quan điểm cho rằng “cần hung tinh để phá đá lấy ngọc ra”, thì cách này rất sợ Kình Dương tại Ngọ. Gặp Kình dương tại Ngọ là sợ nhất vì riêng Kình đã làm nên cách “mã đầu đới kiếm” chủ về hung. Cổ thư viết về trường hợp này có nói “Đãn kiến Kình Dương vi phá cách, Chủ nhân khốn trệ họa lai ương” – Tức là : Nếu gặp Kình dương thì là phá cách, chủ người khốn đốn, gặp nhiều tai ương.

Vương Đình Chi khi bình về cách này còn cho rằng, nếu Lưu niên Mệnh cung mà gặp cách này, lại có Lưu Kình bay đến thì không thể cát tường được.

Và cổ nhân có lời khuyên cho cách Thạch trung ẩn ngọc này rằng : “bất tẩu tối cao phong vi nghi, tắc nhất sinh vị cao lộc hậu, nhược thủ đính điểm, tắc hữu lương hậu quả, hoặc tao chúng nhân sở chỉ trách, chí thân bại danh liệt” – Nghĩa là “chẳng nên đi đến đỉnh cao thì một đời được chức cao lộc hậu, nếu mà lên đến đỉnh cao ắt sẽ gặp rắc rối, dễ bị người ta chỉ trích, thậm chí là thân bại danh liệt”.

Đến đây thì cảng thấm thía cái câu “nghi ẩn bất nghi hiển”, cứ yên tâm ngồi đó “ngậm miệng ăn chè” mà hưởng vinh hoa phú quý, chớ có nổi hứng mà tranh đoạt với đời thì sẽ lãnh hậu quả. Đấy mới đích thực là “ngọc ẩn trong đá”.

(Còn tiếp)
 

Thanh Vũ

Thành viên nhiệt tình
Cự Môn tại Mão Dậu cung:

Cự Môn tại Mão Dậu cung, gọi là Cự Cơ Mão Dậu, nó không hình thành hẳn một cách cục có điểm đặc trưng riêng như một số cách cục khác, mà chỉ là tên gọi của thế đứng chính tinh. Người ta hay gọi nó là thế Cự Cơ Mão Dậu” thay cho Cách Cự Cơ Mão Dậu” là vì nguyên nhân trên. Cũng có người thì đặt tên cách này làCơ Cự Đồng Lâm, những chẳng qua chỉ là mỹ từ thôi, vì nó cũng là nghĩa Cự Cơ đồng cung tại Mão dậu vậy.

Khi Cự Môn đồng cung Thiên Cơ ở đất Mão Dậu, thì nhìn nhận đầu tiên là cả hai sao đều nhập miếu. Nhưng vì nó là sự kết hợp của một Cát tinh và một Hung tinh, nên dù sao cũng có nhiều khiếm khuyết. Có rất nhiều quan điểm xung quanh thế đứng này của Cự Môn. Nhưng xem ra, tựu chung lại thì vẫn chỉ xoay quanh vấn đề phối hợp với tá tinh mà ra cả.

Nhìn trong toàn tinh bàn, đây là Cự Cơ gặp nhau khi Tử Vi di chuyển đến Thìn-Tuất, tại vị trí này Tử sẽ gặp Tướng. Do vậy bài bố toàn tinh bàn sẽ chịu ảnh hưởng nặng nề của thế đứng này. Nếu trong trường hợp này mà Mệnh cư vào Mão Dậu hai cung thì ta sẽ thấy : Cung Tài là Thiên Đồng đắc, cung Quan Vô chính diệu, cung Di Vô chính diệu mà Nhật Nguyệt thì đồng cung tại Sửu Mùi sẽ nhập Cung Phu Thê, Phúc cung sẽ là Thiên Lương hãm tại Tỵ-Hợi. Chưa cần bàn đến Cự Cơ, chỉ nhìn thế đứng của Tử vi tinh bàn này cũng cho thấy chủ nhân không thể là người an nhàn. Cho dù có đạt phú quý công danh cũng không thể nhàn hạ được. Cho nên, mẫu người Cự Cơ là người vất vả, bận rộn, lo toan, bon chen và sắc sảo. Cả cuộc đời lúc nào cũng mải mê, bề bộn. Muốn có một chút an nhàn cũng khó, thân – tâm đều không thể an tịnh.

Xem ra, nếu xét Tam Phương Tứ chính thì thế đứng này không hẳn là toàn vẹn, bởi lẽ chỉ có Bản cung là sáng sủa, mà Tài cung thì có Thiên Đồng vốn dĩ được cho là bạch thủ thành gia” – tay trắng mà dựng lên cơ nghiệp. Cung Di, Cung Quan đều Vô Chính Diệu, nguyên thần chính khí suy kém, cho nên nếu muốn nên công quả trong quan trường, buộc phải mượn đến phụ tinh, tá diệu mới hy vọng, mà kể cả ngay khi có đầy đủ bọn tá diệu, cát hóa cũng phải lao đao lận đận mới thành. Cũng chính vì điểm này mà quan điểm về Cự Cơ Mão Dậu có nhiều ý kiến trái ngược nhau. Ngay cả trong Phú đoán cũng có 2 chiều hướng Cát-Hung rõ rệt.

Cổ nhân bình về thế đứng này có viết : “kiến phụ tá cát diệu giả, mão cung khả quý hiển, phú diệc nại cửu, nhi dậu cung tắc hữu quý nhi bất hiển, phú nhi bất cửu đích khuyết hãm.” – Gặp phụ tá là cát diệu, nếu ở Mão cung thì có thể quý hiển, nhưng dù cho có Phú cũng không bền, mà tại Dậu cung thì có thể sẽ được quý nhưng cũng không nổi danh được. Phú mà không bền, Quý mà không hiển, đó chính là cái sự khuyết hãm của Cự Cơ Mão Dậu vậy.

Phú có nói “Cự Cơ cư mão, Ất Tân Kỷ Bính nhân vị chí công khanh” – Tức là Cự Cơ ở Mão, người tuổi Ất-Tân-Kỷ-Bính thì có thể làm đến công khanh. Nhưng lại nói thêm Cự Cơ Dậu thượng hóa cát giả, túng ngộ tài quan dã bất vinh - Tức là Cự Cơ đóng ở cung Dậu mà gặp Hóa cát (Lộc Quyền Khoa), dẫu có tiền bạc, công danh nhưng cũng không được vinh hiển.

Sở dĩ như vậy, chính vì bản chất của Cự Môn là Ám tinh thuộc Hung tinh. Cho dù thế nào cũng không tránh khỏi cái sự thăng trầm lao đao, khá lên nghèo xuống nhiều lần. Như phần trước đã nói, kiểu gì cũng phải “kinh lịch gian tân”, nghĩa là phải trải quan nhiều gian khổ. Phú thì cũng có mà chẳng bền, tiền tài đến rồi lại đi, từ trong gian khó vươn lên, nhưng rồi cũng khó lòng bảo toàn. Mà quý thì cũng không vênh váo được với đời, có chăng chỉ là nhất thời đắc vận được một chút, mà về sau thì im hơi lặng tiếng. Hơn nữa, trong câu chuyện Phú-Quý này, cũng như phần trước đã nói : Nếu biết dừng đúng lúc thì bảo toàn được thân danh, bằng mà cứ leo lên chót đỉnh thì thân bại danh liệt. Đó cũng là một đặc điểm quan trọng của Cự Môn.

Xưa cổ nhân thì vẫn coi trọng Cự Cơ ở Mão hơn là Cự Cơ ở Dậu, bởi lẽ, ở Mão thì Ngũ hành bản cung thuộc Mộc, mà Cự thuộc Thủy, Cơ thuộc Mộc đều là sinh vượng bình hòa cho nhau. Còn Dậu cung thuộc Kim, so với ngũ hành bản thể của Cự Cơ đều là bị khắc chế hoặc sinh xuất.

Vì thế mà trong Trung Châu phái mới phân tích rạch ròi ra rằng : Cự Môn, Thiên Cơ tại Mão cung, hữu Hóa lộc hoặc Hóa quyền hoặc Lộc tồn đồng độ giả, tịnh hữu Tả phụ, Hữu bật, Thiên khôi, Thiên việt hội chiếu giả, chủ cực quý. Cự môn, Thiên Cơ tại Dậu cung, tuy hữu Hóa lộc, Hóa quyền hoặc Lộc tồn cát đắc đồng độ, tắc chủ quý nhi bất hiển, phú nhi bất cửu. Dĩ thượng các cung vị, quân dĩ tam phương tứ chính bất ngộ kình dương, đà la, hỏa tinh, linh tinh vi hợp cách” – Tức là Cự Môn, Thiên Cơ tại Mão cung có Hóa Lộc, Hóa Quyền, hoặc Lộc Tồn hội hợp, lại thêm Tả Hữu Khôi Việt thì cực quý. Còn Cự Môn Thiên Cơ tại Dậu cung, tuy cũng có Lộc, Quyền, Lộc Tồn hội hợp, thì vẫn quý mà không hiển, phú mà không bền. Trên tất cả các cung vị, cũng như tam phương tứ chính đều phải tránh xa Kình Đà Hỏa Linh thì mới hợp cách cục.

Riêng đối với Nữ mệnh, khi rơi vào Cơ Cự đồng lâm, cổ nhân không cho là tốt, phê rằng : Cự Môn Thiên Cơ vi phá đãng”. – Cự môn Thiên Cơ đồng cung nhập nữ mệnh thường là người vẫn được phú quý, nhưng gia đạo khó toàn.

Đẩu số Toàn thư còn chú thêm : Dần Mão Thân cung an mệnh Cự Cơ phùng chi, tuy vi vượng địa, nhiên chung phúc bất toàn mĩ, hoặc phú quý bất miễn tư tình, như cư hãm địa hạ tiện.” – Tức là : Dần-Mão-Thân cung mà an mệnh gặp Cự-Cơ, thì tuy là đất vượng địa đấy, nhưng cuối cùng cũng không được toàn mỹ, hoặc phú quý thì không tránh khỏi tư tình, còn nếu như mà cư hãm địa thì hạ tiện”.

Cũng chính vì thế mà Cổ nhân phê Nữ mệnh Cự cơ là Cự Cơ Mão Dậu bất nghi gia– tức là Cự Cơ ở Mão Dậu không thành gia đình được. Có lẽ, chỉ là ở cái bản tính Thị phi chiêu oán. Nên khó lòng bảo toàn gia đạo. Cũng do quan niệm trước đây về gia đình là phải “Phu xướng phụ tùy” – chồng là chủ khởi xướng thì vợ phải theo. Nếu gặp người nào mà có nhiều ý kiến phản đối, thì chắc chắn khó bảo toàn gia đình. Đến ngay như xã hội hiện đại cũng vậy thôi, nếu phụ nữ mà không khéo, cứ chao chát thì cũng dễ tan vỡ lắm.

Vai trò của Thiên Cơ trong cái thế Cự Cơ này thể hiện gần như mờ nhạt, bởi lẽ nó không có đồng minh, tam phương Tứ chính chỉ có một mình. Chính vì thế nên rất cần các phụ tinh, tá diệu cát như Khoa Quyền Lộc Quy, Xương Khúc Tả Hữu.

Cự Môn tương phối lục sát - lục cát :

(Còn tiếp)
 
Chỉnh sửa cuối:

Thanh Vũ

Thành viên nhiệt tình
Cự Môn tương phối Lục Cát – Lục Sát

Như đã phân tích ở các phần trước về tính lý của Cự môn. Đành rằng là có các cách cục khác nhau, nhưng sâu hơn chút nữa, thì ta có thể thấy rằng các cách của Cự môn đều chịu ảnh hưởng rất nhiều của các tá diệu. Cho nên, xem xét việc Cự môn tương phối với các tá diệu cũng là một kỹ thuật cơ bản để luận đoán các cách cục của Cự Môn.

Cũng theo nguyên tắc thông thường của Tử vi, các cách cục của Cự Môn tập trung tính chất ở hai đặc điểm chính : sự Miếu Hãm của chính tinh và Hội hợp của tá tinh - hóa diệu.

Việc miếu hãm thì chắc không phải bàn nữa, bởi nó đã thể hiện trong cách cục của Cự Môn rồi. Còn sự hội hợp của tá tinh, hóa diệu thì cũng theo một nguyên tắc chung là “phùng cát dã cát, phùng hung dã hung”. Gặp được sao tốt thì là tốt, mà gặp được sao hung thì là hung. Có thể phân tích các trường hợp cụ thể như sau :

Hóa diệu : Hóa diệu là Lộc-Quyền-Khoa-Kỵ, Cự môn rất cần Lộc Quyền Khoa hội hợp để thành cách. Nhưng lại rất ngại Hóa Kỵ che ám (trừ một vài trường hợp đặc biệt được gọi là Phản vi kỳ cách).

Chẳng thế mà các câu phú đều tập trung vào việc xem xét sự hội hợp của Hóa diệu với Cự Môn, điển hình như“Cự môn Thìn Tuất vi hãm địa, Tân nhân hóa cát lộc tranh vanh” – tức là Cự Môn ở Thìn-Tuất vốn là đất hãm sẽ không tốt, nhưng người tuổi Tân thì gặp được Cát Hóa, tài lộc sẽ rất khá.

Như đã dẫn, ngay như cách Thạch Trung Ẩn Ngọc, khi Cự phối với các tá diệu, hóa diệu thì :


  • Gặp Quyền (hoặc) Lộc là Thượng cách
  • Gặp Lộc tồn là Thứ cách.
  • Không có Lộc tồn, chẳng có Hóa cát là tầm thường.




Các sao, các hóa đặc biệt thích hợp với Cự môn là Hóa Lộc, Hóa Quyền, Lộc Tồn. Cổ thư viết : “Nhược đắc lộc tồn đồng độ, tắc phúc hậu lộc trọng, đãn tính tình kiệm phác nhi cẩn thận, chủ phú. Như hóa quyền, hóa lộc, tắc phách lực cực đại, thiện sang nghiệp, chủ quý” nghĩa là : Nếu được Lộc tồn đồng độ, thì phúc dày lộc trọng, nhưng tính tình thì cần kiệm cẩn thận, chủ về giầu sang. Còn như Hóa Quyền, Hóa Lộc, thì tính quyết đoán rất lớn, dễ gây dựng thành cơ nghiệp.

Đặc biệt là cách Cự Môn Tý Ngọ rất cần Quyền, Lộc. Chẳng thế mà Ngọc Thiềm tiên sinh đã nói “Cự môn Tý Ngọ nhị cung phùng, cục trung đắc ngộ dĩ vi vinh, tam hợp hóa cát khoa quyền lộc, quan cao cực phẩm y tử bào.” Nghĩa là Gặp Cự môn ở hai cung Tý-Ngọ, được cục này là vinh hiển, nếu lại được Hóa Cát trong tam hợp hội về, thì có thể làm quan rất cao, mặc áo tía trong triều đình.

Cự Môn với Lục Cát (Tả Hữu Xương Khúc Khôi Việt) :

Với lục cát tinh, đương nhiên là nhóm của những sao phò trợ rất đắc lực để hỗ trợ thành cách. Nhưng trong đó, Cự môn đặc biệt thích hợp với Tả Hữu hơn. Cự được tả hữu hội hợp, dễ làm nên cơ nghiệp. Tả hữu trợ giúp cho Cự môn đắc dụng nhất là khi phối hợp được với Lộc tồn, người tuổi Quý được cách này sẽ phần nhiều là quý hiển.

Còn đối với Khôi Việt, ngoài ý nghĩa của Quý Nhân ra, thì Khôi Việt không có sự phụ giúp nào đặc biệt cho Cự Môn cả. Bởi lẽ, Cự môn dù sao cũng có tính tài khí mạnh, mà Khôi Việt thì chủ quý nhiều hơn, nên tác dụng không rõ rệt lắm. Khôi Việt trợ giúp đắc lực nhất cho Cự Môn khi Cự đóng ở cung Mão-Dậu. Trong trường hợp này thì vì có Thiên Cơ đi cung với Cự, nên rất thích hợp với Khôi Việt, chủ về Quý, dễ thành đạt trong quan trường.

Đối với Văn Xương, Văn Khúc, thì gần như là không hợp với Cự, bởi lẽ Cự vốn là hung tinh, chủ về thị phi, không hợp với văn tinh. Nếu lại gia thêm Hóa Kỵ nữa thì càng không hợp. Duy chỉ có một trường hợp Cự Môn cư Thìn, nếu gặp Xương Khúc, Hóa Quyền hoặc Hóa Lộc thì lại là Kỳ cách! Phản hung vi cát.

Cách này vốn dĩ nếu xét theo cách bình thường thì không có gì tốt đẹp cả. Cổ nhân đã nói “Thìn Tuất ứng hiềm hãm Cự Môn” – Hai cung Thìn-Tuất ngại nhất là gặp Cự Môn hãm! Tại vị trí này Cự Môn là đất hãm, đối cung là Thiên đồng cũng Hãm. Xét Tam phương hội hợp thì có 2 trường hợp : Cự môn cư Thìn thì sẽ có Thái Dương hãm hội chiếu, Cự Môn cư Tuất thì sẽ có Thái Dương miếu hội chiếu. Mấu chốt vấn đề chính ở chỗ này.

Đối với Cự Môn cư Tuất, Vương Đình Chi viết : “Cự môn tại Tuất cung, Hóa quyền hoặc Hóa lộc giả, nãi kỳ cách, nhân vi Thái dương tại Ngọ cung, thị Nhật lệ trung thiên, hội chiếu Cự môn, tắc âm ám chi khí tiêu tẫn hĩ.” - Khi Cự môn đóng ở Tuất gặp Hóa Quyền, Hóa Lộc thì là Kỳ cách, nguyên do Thái dương đóng ở Ngọ, nhập miếu là “Nhật lệ trung thiên” sẽ làm tiêu tan cái ám khí của Cự.

Đối với Cự Môn tại Thìn cung, Vương viết : “Tại Thìn cung, hữu nhất cá trọng yếu cách cục: cự môn dữ Văn xương đồng độ, Tân niên sinh nhân chủ phú quý vô luân. (phường bản chích ngôn cự môn tại thần tuất, "Tân sinh nhân mệnh ngộ phản vi kỳ" , thiểu liễu Văn xương đồng độ giá cá điều kiện) tại Tuất cung kiến cát Hóa diệc vi kỳ cách.” – Tại cung Thìn có một cách cục trọng yếu của Cự Môn, đó là Cự Môn Văn Xương đồng độ, người tuổi Tân chủ phú quý không kể hết (phường bản* chỉ nói Cự Môn tại Thìn Tuất “Người tuổi Tân mà mệnh gặp được thì lại lại là kỳ cách”, mà thiếu mất điều kiện Văn xương đồng độ). Tại cung Tuất mà gặp Hóa Cát cũng là kỳ cách.

* Sách ngày trước chia làm 2 loại, Kinh bản và Phường bản. Kinh bản là sách chính gốc, còn Phường bản là các sách bản sao của các địa phương khác nhau.

Như vậy, tổng kết lại sẽ có các trường hợp gọi là “kỳ cách” như sau :


  • Cự Môn cư Thìn, có Văn xương đồng độ, người tuổi Tân thì đắc cách
  • Cự môn cư Tuất, có Quyền Lộc hội hợp, người tuổi Tân hợp cách.


Chú ý rằng, điều kiện để có được kỳ cách phải rất chặt chẽ, không được sơ hở, ngoài những điều kiện kể trên, thì bản cung phải sáng sủa, tránh xa Tuần triệt, sát tinh, tam phương tứ chính cần phải có văn tinh, quý tinh trợ thủ thì mới thành cách xác đáng được.

Ngoài ra, như trên đã viết rõ, Cự môn cũng rất cần Lộc tồn để hóa giải mà thành cách, Đẩu số toàn thư viết“Phùng lộc tồn tắc giải kì ách” – Gặp Lộc tồn thì có thể hóa giải tai ách cho Cự môn. Nhưng đặc biệt chú ý, trường hợp Cự môn cư Mão, người tuổi Giáp thì sẽ bị Kình Dương đồng cung, lại là hung cách. (phần phân tích lục sát xem ở phần sau).


Cự môn phối với Lục Sát (Không Kiếp Kình Đà Hỏa Linh).

(Còn tiếp)
 

Thanh Vũ

Thành viên nhiệt tình
Cự môn phối với Lục Sát (Không Kiếp Kình Đà Hỏa Linh).

Ngay từ đầu đã nói rằng Cự Môn là Hung tinh, chủ thị phi-ám muội “minh tranh ám đấu”. Bởi vậy, khi phối với Hung-Sát tinh thì đương nhiên là KHÍ CÁCH, tức là sẽ bị phá cách nặng mà cổ nhân phê rằng “Hủ mộc nan điêu” – như khúc gỗ đã mục nát, không thể đẽo gọt được thành cái gì cả. Kể cả khi Cự miếu vượng mà hội hung sát tinh thì cũng sẽ bị phá cách, không còn tốt đẹp nữa. Nhưng tùy theo mỗi nhóm Hung-Sát tinh mà sẽ có nhưng tác dụng khác nhau đến Cự Môn. Ta hãy thử tìm xem xưa nay người ta luận như thế nào về Cự gặp Hung-Sát tinh.

Đối với Không Kiếp : Địa Không-Địa Kiếp là một cặp sao Sát tinh đáng ngại nhất của Tử vi, thậm chí có người còn cho rằng “đóng đâu chết đó”. Vậy khi kết hợp với Cự Môn, thì đương nhiên sẽ làm tăng tính Hung của Cự Môn. Về cơ chế, thì lúc ấy cái “tính hung” của Cự sẽ phối với “tính hung” của Không Kiếp mà tác họa. Tính Hung của Cự Môn là Thị Phi, Ám Muội.. mà tính Hung của Không Kiếp là “giáng thương nhân, hình pháp, thất tài, cô đơn chi họa” tức là giáng họa về thương tích, hình pháp, mất tiền, cô đơn. Cả hai “tính hung” này mà phối hợp với nhau thì khó lòng tránh được tại họa, ít nhiều thì cũng phải gặp phiền toái.

Đẩu số toàn thư có viết : “Thử tinh hóa ám bất nghi phùng, canh hội sát tinh dũ tứ hung, thần xỉ hữu thương kiêm tính mãnh, nhược nhiên nhập miếu khả hòa bình.” - Nghĩa là, Cự môn hóa Ám tinh chẳng nên gặp làm gì, nếu lại hội sát tinh thì càng hung, môi răng dễ bị thương tích lại thêm cái tính mạnh bạo, làm việc gì cũng “nóng giận mất khôn” mà để lại hậu quả, nếu như Cự mà nhập miếu, thì may ra có thể được hòa bình.

Như vậy, Cự gặp Không kiếp thì nên chú ý, ngoài việc mang thương tích vào môi-răng, nhưng quan trọng hơn cả là cái tính Thị Phi-Ám Muội của Cự bị kích động lên, cho nên thường tai họa sinh ra do hành xử nóng giận, vội vã, không kiềm chế được bản thân mình.

Đối với Kình Đà : Kình – Đà là hai sát tinh cũng rất nặng nề của Tử vi, tác dụng của nó tuy có khác nhau, nhưng cổ nhân nhóm với Hỏa Linh và quy nó về Tứ Hung. Đối với Cự Môn, thì tác dụng của Kình – Đà có phần nặng nề hơn Không Kiếp. Trong cổ thư có viết về Cự-Kình-Đà một câu “Cự môn Tứ sát - hãm nhi hung” – tức là Cự Môn gặp tứ sát thì không những bị vây hãm, mà còn Hung. Khi Cự gặp Dương-Đà-Hỏa-Linh thì coi như bị phá cách nặng, không những không thể phát huy được (hãm), mà còn đem tai họa đến (hung).

Trần đoàn lão tổ có nhận xét rằng “Tham Hao đồng hành, nhân hảo đồ phối. Ngộ đế tọa tắc chế kì cường. Phùng lộc tồn tắc giải kì ách, trị dương đà nam đạo nữ xướng” – Nghĩa là, Cự môn mà gặp Tham-Hao đồng hành, thì như gặp người bạn tốt, gặp Tử vi thì có thể chế được tính cường ngạnh, gặp Lộc tồn có thể giải được ách, gặp Dương-Đà thì trai dễ trộm cắp, mà nữ dễ làm kỹ nữ.

(có nhiều thắc mắc trong câu này của Trần Đoàn lão tổ là Tại sao Cự lại có thể gặp được Tham hoặc Tử vi, về mặt an sao thì không thể, và cho rằng câu này là man ngôn. Nhưng về mặt phối hợp với nhau để luận đoán, thì trên lá số không hẳn chỉ có một sự phối hợp khi an sao, mà còn nhiều sự phối hợp khác nữa, vấn đề này cần suy ngẫm thêm).

Bình luận về Cự-Dương-Đà, Ngọc Thiềm tiên sinh phê rằng : “Cự môn dương đà vu thân mệnh tật ách luy hoàng khốn nhược đạo nhi xướng” – Nghĩa là, Cự môn Dương-Đà mà đóng vào Thân-Mệnh hoặc Tật Ách thì gày còm, vàng vọt, ốm yếu, dễ sinh trộm cắp hoặc kỹ nữ.

“Cự môn thủ mệnh kiến Dương Đà, nam nữ tà dâm” – Người Cự môn thủ mênh, nếu trong tam phương tứ chính mà hội Kình Đà, thì thường mang lòng tà dâm.

Với Kình Dương, phê rằng “Cự Hỏa Kình dương, chung thân ải tử” – tức là Cự mà gặp Hỏa linh, Kình dương, thì cuối đời cái chết không được bình thường (ải tử - là thắt cổ tự tử, nhưng dịch cho thoáng nghĩa thì nói như trên).

Với Đà la, Phú nói rằng “Cự môn Đà la đồng cư Thân Mệnh hoặc Tật Ách cung, chủ bần khốn, thể nhược tàn tật, tổ nghiệp phiêu đãng, bôn ba lao lục” – Cự môn Đà la cùng đóng ở Thân, Mệnh hoặc Tật ách cung, thì chủ về nghèo khốn, thân thể yếu đuối, tàn tật, bỏ tổ nghiệp mà trôi nổi, bôn ba vất vả.

Ngoài ra, trong Toàn thư còn thêm một câu về hình tướng “Cự Môn, Đà La tất sinh dị chí” – Tức là Mệnh thân mà có Cự Môn, Đà La thì ắt là sẽ có nhưng nốt ruồi khác lạ (câu này bản phường chỉ nói rằng : Đà la tất sinh dị chí, mà không có Cự môn – cần chiêm nghiệm)

Đối với Hỏa – Linh : Hỏa Linh là hai Hung tinh cùng hàng với Không Kiếp Kình Đà. Phối với Cự Môn, thì cũng giống như những hung sát tinh trên, làm cho hung tính của Cự tăng lên mà tác họa. Tính của Hỏa Linh đặc trưng là yểu chiết, cho nên trong Tử vi còn gọi là Đoản thọ sát tinh. Chính vì vậy, mà khi gặp Hung tinh Cự Môn thì trong các cách cục đều phảng phất ý nghĩa này.

Như câu “Cự Hỏa Kình dương chung thân ải tử”, hoặc “Cự môn Hỏa Linh phùng ác hạn, tử vu ngoại đạo” – Cự môn mà gặp Hỏa Linh, nếu vào hạn ác thì có thể chết ngoài đường.

Đối với cách này, thì rất cần phải có Lộc tồn để hóa giải (như trên đã dẫn), và khi nhập hạn thì rất cần Tử vi để áp chế thì có thể hóa giải được cái sự hung hiểm của trường hợp này. Ngọc Thiềm tiên sinh phê rằng “Cự môn Hỏa Linh, vô Lộc tồn Tử vi áp chế, quyết phối thiên lý, tao hung” – Nghĩa là, Cự-Hỏa-Linh mà không có Lộc-Tử hóa giải, áp chế thì phải quyết là sẽ lấy chồng lấy vợ rất xa (thiên lý), mà sẽ gặp hung họa. Nhưng như bài trước đã viện dẫn, khi Cự môn cư Mão, người tuổi Giáp sẽ gặp Kình dương đồng cung, sẽ là hung cách chứ không hy vọng hóa giải được.

Và cuối cùng, có lẽ cũng căn cứ theo tính chất của Hỏa-Linh, thì xưa còn nhận xét rằng “Cự môn thủ mệnh, tam hợp sát thấu, tất tao hỏa ách” – Cự môn nhập mệnh, nếu trong tam hợp có Hỏa Linh hội về, ắt sẽ gặp hỏa ách.

(câu này vẫn còn đang trong vòng nghi ngờ và tranh cãi, cho rằng nó được suy diễn ra từ tính chất của Hỏa tinh. Bởi lẽ Cự Môn thuộc Thủy, gặp Hỏa không có lẽ nào lại kích động hỏa tính của Hỏa tinh được – cần chiêm nghiệm thêm).


(Còn tiếp)
 

Thanh Vũ

Thành viên nhiệt tình
NGŨ HÀNH TRONG GIẢI ĐOÁN TỬ VI:
Ngũ hành trong giải đoán Tử Vi - Tuetvnb

Vì có một số bạn thắc mắc về cái sự Luận Ngũ hành trong Tử vi. Có người thì cho rằng Ngũ hành là quan trọng nhất, rồi từ đó mỗi khi luận tử vi là nhất nhất cái gì cũng mang Ngũ hành sinh khắc chế hóa ra mà luận. Lại có người cho rằng Ngũ hành không có vai trò gì mấy trong khi luận Tử vi, rồi cứ thế "khai trừ" ra khỏi cách luận của mình, không quan tâm đến Ngũ hành Sinh khắc nữa, chỉ căn cứ vào "các sao" mà luận.
Để lật lại vấn đề này, tôi xin khơi gợi trước. Tôi xin dịch một đoạn BÌNH GIẢI CỐT TỦY PHÚ trong cuốn "Tử Vi Đẩu số Toàn Thư" của Tiến Sĩ La Hồng Tiên biên soạn vào đời nhà Thanh, đã được Vũ Tài Lục dịch ra một phần trong cuốn "Đẩu Số Toàn Thư". Dịch đoạn văn này, cũng ý muốn để các bạn tham khảo xem các bậc Học giả ngày xưa nhìn nhận về Ngũ hành trong Tử Vi như thế nào.

Nguyên Văn chữ Hán :

太極星曜,乃群宿眾星之主,天門運�� �,即扶身助命之源,在天則運用無常� ��在人則命有格局。
先明格局,次看眾 星。或有同年同月同日同時而生,則�� �貧賤富貴壽夭之異。
或在惡限,積百萬之金銀。或在旺鄉�� �遭連年之困苦。禍福不可一途而惟,� ��凶不可一例而斷。

要 知一世之榮枯,定看五行之宮位。立�� �可知貴賤,安身便曉根基。
榮者富貴也,枯者貧賤也,人生一命�� �中而見之也,此星吉佐星吉運限吉,� ��一生安然。 運限兇而流年遇殺劫,定災悔而言。�� �行即木火土金水也,如寅申巳亥則為� ��生,子午卯酉則為四敗,辰戌丑未則 為四墓,四生臨官帝旺則為富貴,遇�� �敗死墓絕則 為貧賤,墓庫胎養則為傭常。立命在�� �行生旺之宮則富,死絕之宮則貧,安� ��在生旺之宮則貴,死絕之宮則賤,此 亦承上文而言之。

第一先看福 德,再三細考遷移,分對宮之體用,�� �三合之源流。命無正曜,夭折孤貧。� ��有凶星,美玉瑕玷。既得根源堅固, 須知合局相生,堅固則富貴延壽,相�� �則財官昭 著。

Phiên Âm:
Thái Cực tinh diệu, nãi quần túc chúng tinh chi chủ, Thiên môn vận hạn, tức phù Thân trợ Mệnh chi nguyên, tại Thiên tắc vận dụng vô thường, tại nhân tắc Mệnh hữu cách cục.
Tiên minh cách cục, thứ khán chúng tinh.Hoặc hữu đồng niên đồng nguyệt đồng nhật đồng thì nhi sinh, tắc hữu bần tiện phú quý thọ yểu chi dị. Hoặc tại ác hạn, tích bách vạn chi kim ngân. Hoặc tại vượng hương, tao liên niên chi khốn khổ. Họa phúc bất khả nhất đồ nhi duy, cát hung bất khả nhất lệ nhi đoạn.
Yếu tri nhất thế chi vinh khô, định khán ngũ hành chi cung vị. Lập Mệnh khả tri quý tiện, an Thân tiện hiểu căn cơ.
Vinh giả phú quý dã, khô giả bần tiện dã, nhân sinh nhất Mệnh chi trung nhi kiến chi dã, thử tinh cát tá tinh cát vận hạn cát, tắc nhất sinh an nhiên. Vận hạn hung nhi lưu niên ngộ Sát Kiếp, định tai hối nhi ngôn.
Ngũ hành tức Mộc Hỏa Thổ Kim Thủy dã, như Dần Thân Tị Hợi tắc vi tứ Sinh, Tý Ngọ Mão Dậu tắc vi tứ Bại, Thìn Tuất Sửu Mùi tắc vi tứ Mộ, tứ Sinh Lâm quan Đế vượng tắc vi phú quý, ngộ Suy Bại Tử Mộ Tuyệt tắc vi bần tiện, Mộ khố Thai Dưỡng tắc vi dong thường.
Lập Mệnh tại ngũ hành Sinh Vượng chi cung tắc phú, Tử Tuyệt chi cung tắc bần, an Thân tại Sinh Vượng chi cung tắc quý, Tử Tuyệt chi cung tắc tiện, thử diệc thừa thượng văn nhi ngôn chi.
Đệ nhất tiên khán Phúc đức, tái tam tế khảo Thiên di, phân đôi cung chi Thể Dụng, định tam hợp chi nguyên lưu. Mệnh vô chính diệu, yểu chiết cô bần. Cát hữu hung tinh, mỹ ngọc hà điểm.
Ký đắc căn nguyên kiên cố, tu tri hợp cục tương sinh, kiên cố tắc phú quý duyên thọ, tương sinh tắc tài quan chiêu trứ.

Dịch Nghĩa :
Sao trên bầu trời, chủ là gồm đủ các tinh tú, xoay vần trên thiên môn, tức là cái nguồn gốc của sự Phù Thân, Trợ Mệnh. Ở trên trời thì vận chuyển không cùng, vào thân mệnh thì định thành cách cục. Cho nên trước phải xem rõ cách cục, rồi sau mới xét đến chúng tinh khác.

Cũng có sự nghi ngờ rằng có người cùng năm, cũng tháng, cùng ngày, cung giờ sinh, mà lại có bần tiện phú quý thọ yểu khác nhau. Hoặc có người gặp ác hạn mà vẫn kiếm được trăm vạn kim ngân, có người gặp hướng vượng, mà gặp khốn khó năm này qua năm khác. Họa phúc không thể một đường mà suy tính, cát hung ở trên đời, không thể một lời mà hết.

Muốn biết Vinh Khổ một đời người, nhất định phải xem ngũ hành của Cung Vị, Khi Lập Mệnh phải biết được sự quý tiện, An Thân ít nhất cũng phải biết được căn cơ. Vinh là phú quý, Khổ là bần tiện. Xem trong cái Mệnh của con người ta, nếu thấy chủ tinh tốt, tá tinh tốt, vận hạn cũng tốt, thì một đời an nhiên. Vận hạn xấu mà lưu niên gặp Sát - Kiếp, nhất định nói rằng gặp tai ách xấu.

Ngũ hành là Mộc-Hỏa-Thổ-Kim-Thủy. Như Dần Thân Tỵ Hợi là Tứ Sinh, Tý Ngọ mão Dậu là Tứ Bại, Thìn Tuất Sửu Mùi là Tứ Mộ. Tứ Sinh mà gặp Lâm Quan – Đế Vượng là Phú Quý, gặp Suy-Bệnh-Tử-Mộ-Tuyệt là bần tiện, gặp Mộ-Thai-Dưỡng thường là kẻ làm mướn.

Lập mệnh mà tại cung có Ngũ hành sinh vượng thì giầu, cung Tử Tuyệt thì nghèo, An thân mà vào cung Ngũ hành sinh vượng thì Quý, Tử Tuyệt thì Tiện. Cái này là tiếp theo đoạn văn trên mà nói.

Trước tiên phải xem cung Phúc Đức, luôn luôn xem kỹ cung thiên di, Phân đối cung làm Thể-Dụng (Bản cung là Thể, đối cung là dụng), Định Tam hợp là Nguyên Lưu (khởi nguồn). Mệnh Vô chính diệu ắt là Yểu Chiết (không thọ), Cô Bần (nghèo, cô đơn). Tốt mà gặp hung tinh, thì như ngọc đẹp mà có vết.
Đã được Căn Nguyên kiên cố, nên biết phải có hợp cuộc tương sinh. Kiên cố thì Phú Quý Thọ bền, tương sinh thì Tài Quan sáng láng.

“Đối với vấn đề Âm Dương - Ngũ Hành trong Tử Vi, nó có mặt cả trong cách an sao và cả trong lời giải đoán. Ta nên xem xét trên nhiều khía cạnh.
- Đối với việc an sao: Âm Dương - Ngũ Hành một phần thể hiện qua sự bố trí và miếu hãm..của một số tinh tú (nhưng không phải là tất cả!).
- Đối với lời giải đoán : việc Luận Ngũ Hành trong Tử Vi: Ta nên chia ra làm hai bước:
Bước 1: Những nhận định tổng quát : Cho ta nhưng cái nhìn khái quát, tổng thể cuộc đời của đương số, giai đoạn này cần phải cân nhắc nhiều về vấn đề Âm Dương, Ngũ Hành để mà gia giảm.
Bước 2: Những luận đoán "tinh" : Ở phần này thì nên chuyên sâu đi vào việc phân tích cách cục, bố trí tinh diệu...trong phần này, sư ảnh hưởng của Âm Dương, Ngũ Hành có phần "nhẹ nhàng" hơn.”
 

trungtvls

https://www.facebook.com/trungtvls
7. Thái Âm
太陰:

屬陰水, 為中天星系, 夜生人主星.

廟旺於酉戌亥子丑, 宜夜生人.

如日生人而太陰落陷, 則為不宜.

太陽主發散, 主貴, 而太陰則主收藏, 主富, 所以太陰亦有財星意味. 但這財星和武曲有所不同, 武曲乃以行動求財, 而太陰則屬計 劃, 幕僚性質, 有時又為可掌握財權, 一如太陽一樣, 喜中和.

所以太陰雖居於陷宮, 得左右曲昌祿權相會, 仍為佳造, 太陰廟旺, 會諸吉, 化忌也不為害.

但太陰組合不穩定, 再會曲昌, 反為感情用事, 再遇煞則或是玩弄權術.

和太陽比較, 太陽主動, 主發射, 主傳播, 主貴.

而太陰主靜, 主收歛, 主富. 如果收歛過盛, 為人就會工於心計, 而城府也深, 而它和太陽最大的分別, 就是太陽有它自己的光和熱, 但太陰卻全賴太陽的光熱來照射, 沒有太陽照射的太陰, 是漆黑一團.

用言詞來表達的話, 一個差的天府是"深沉" , 而差的太陰卻"陰森" .


THÁI ÂM
Thái Âm thuộc Âm Thủy, là sao ở trung thiên, chủ tinh của người sinh ban đêm.Miếu vượng tại Dậu Tuất Hợi Tý Sửu, hợp với người sinh ban đêm, nếu người sinh ban ngày mà lại có Thái âm lạc hãm, thì tức là không hợp.Thái dương chủ phát tán, chủ quý, còn Thái âm thì chủ thu giấu, chủ phú, cho nên Thái Âm cũng bao gồm ý tứ của Tài tinh, nhưng cái Tài tinh này so với Vũ Khúc có điểm khác nhau. Vũ khúc lá hành động cầu tài, mà Thái âm thì thuộc kế hoạch, mang tính chất phụ tá. Có lúc lại có khả năng nắm giữ quyền lực tiền tài, giống như Thái Dương, cần sự trung hòa.Cho nên khi Thái âm cư ở cung hãm, mà được Tả Hữu Khúc Xương Lộc Quyền tương hội thì vẫn là đẹp, Thái Âm miếu vượng mà hội được cát tinh thì Hóa Kỵ không hại được.Nhưng tổ hợp của Thái Âm không ổn định, nếu lại gặp Xương Khúc thì trái lại, lại bị tình cảm lãnh đạo. Nếu lại gặp Sát tinh thì có thể trở thành trò đùa của quyền lực.
So với Thái Dương, Thái Dương chủ Động, chủ phát xạ, chủ truyền bá, chủ quý. Còn Thái Âm chủ Tĩnh, chủ thu nhận, chủ Phú. Nhưng nếu như thu nhận quá thịnh, thì sẽ là người nhiều tâm kế, lòng dạ thâm sâu, rất khác biệt so với Thái Dương. Chính là do Thái Dương tự mình tỏa sáng, tỏa nhiệt, Nhưng Thái Âm thì ngược lại, được diếu sáng bởi Thái Dương, nếu không có Thái Dương chiếu đến, thì Thái âm tối đen như mực.Dùng cách ví von mà nói, thì có một sự khác biệt giữa Thiên phủ “thâm trầm”, khác với Thái Âm là “Âm Sâm” (Âm Sâm có nghĩa là ảm đạm).


Lời bàn : Trong đoạn này Vương tiên sinh đã căn cứ vào tính chất Âm-Dương của 2 sao Thái Âm – Thái Dương để lập luận. Thái Âm vốn dĩ xưa nay vẫn được coi là Tài tinh, theo Vương tiên sinh thì tính Tài của Thái Âm chính là do đặc tính “Thu liễm” mà ra, bởi vậy về mặt tư tưởng, Thái Âm tham lam hơn, không quảng bác như Thái Dương. Đặc biệt, trong đoạn này Vương tiên sinh đã thể hiện hai quan điểm. Thứ nhất, Vương cho rằng Thái Âm cần phải có ảnh sáng của Thái Dương mới huy hoàng được, bởi vậy nếu được đắc cách Nhật Nguyệt thì mới thự sự hoàn mỹ. Thứ hai, Vương cho rằng “Thái Âm miếu vượng thì Hóa Kỵ không làm gì được”, đây chính là điểm khác biệt của Trung Châu Phái khi an Hóa Kỵ cùng với Thái Âm cho tuổi Canh. Điều này xưa nay vẫn tranh cãi, tuy nhiên ta có thể rút ra một điều rằng, cho dù An Hóa Kỵ với Thái Âm, hay Hóa Khoa với Thái Âm, thì tuổi canh gặp cách này vẫn là đẹp.

 

trungtvls

https://www.facebook.com/trungtvls
天梁:

屬陽土, 為南斗第三星, 化氣為蔭, 又化為刑.

因天梁化氣為刑, 所以便有剛剋孤忌性質, 如果這時再遇天刑, 擎羊等, 則剛剋之性太強, 故此非佳.

而天梁亦有蔭的意味, 蔭者, 消災也, 大有先破後立, 先苦後先甜的味道, 然而必先有災才可發揮天梁的本性.

雖然最後凶終能散, 但人生幅度變化太大, 亦非佳造.

天梁不甚喜化祿, 但喜化科, 最能表現天梁良好一面.

更得輔弼曲昌同會, 更能發揮天梁"蔭" 的本質, 危機過後反而更加精彩.

天梁能消災解難, 所以亦喜從事替人"消災" 的行業, 因此天梁主貴故喜化為科星

光輝的天梁刑忌色彩較輕, 陰暗的天梁刑忌較重, 何謂光輝?

一般來說得廟旺的太陽照射為光輝, 或得科權會的也為光輝, ( 當然, 又得廟旺的太陽和科權照就最佳. ) 退而求其次, 有良好的太陰相遇也好, 只是將天梁變得內歛, 深沉.

如果以上完全沒有, 這天梁便會變得鬼鬼祟祟, 或喜愛挑剔, 與別人落落寡合, 充分發揮"刑" 的特性.



8. THIÊN LƯƠNG

Thuộc Dương Thổ, là ngôi thứ 3 trong chòm Nam đẩu, hóa khí là ẤM TINH, nhưng cũng lại hóa vì HÌNH TINH. Nguyên nhân Thiên Lương hóa khí là Hình tinh là do nó lại có tính chất “cương khắc cô kỵ”, nếu như lúc này mà lại gặp Thiên Hình cung Kình Dương thì tình cương khắc sẽ mạnh lên, cho nên cách này là không tốt.

Nhưng Thiên Lương cũng có tính chất của cái bóng che chở, tức là ẤM (hán việt : Ấm tức là cái bóng che chở của cha mẹ, bề trên, bởi Lương là biểu trưng của Phụ Mẫu). Ấm (tính chất) tức là tiêu tai đặc trưng lớn nhất là “tiên phá hậu lập” (trước phá đi rồi sau mới lập thành), trước đắng mà sau mới có vị ngọt. Nhưng mà trước phải có tai vạ thì sau mới phát huy được tính chất của Thiên Lương. Tuy nhiên, cuối cùng thì cái Hung cũng sẽ tiêu tán hết, nhưng độ biến hóa họa phúc của đời người quá lớn, cũng không phải là điều tốt.

Thiên Lương rất tốt nếu gặp Hóa Lộc, nhưng cũng tốt nếu là Hóa Khoa, lúc ấy sẽ cái mặt tốt đẹp lương thiện của Thiên Lương sẽ biểu hiện mạnh mẽ nhất. Nếu được Phụ Bật Xương Khúc cùng hội hợp thì lại càng có khả năng phát huy cái tình chất “ẤM” của Thiên Lương, càng về sau càng mạnh. Thiên Lương có khả năng tiêu tai giải khó, sở dĩ Thiên Lương cũng hay làm nên cái sự “tiêu tai” là bởi Thiên Lương chủ quý, nên có thể hóa khí thành khoa tinh.

Trong cách cục Thiên Lương - Hình Kỵ : Cái ánh sáng màu sắc của Thiên Lương Hình Kỵ thì ít, mà cái sự âm u của Thiên Lương Hình KỴ thì nhiều. Tại sao lại chiếu sáng ?

Đại khái là nếu được Thái Dương miếu vượng chiếu rọi thì tỏa sáng, hoặc đắc khoa quyền hội lợp mà tỏa sáng (đương nhiên nếu lại được thêm Thái dương miếu vượng hòa cùng Khoa Quyền chiếu sáng nữa thì cực tốt). Thứ nhì là nếu gặp được Thái Âm thì cũng tốt nhưng trường hợp này Thiên Lương trở nên thâm trầm, nội liễm (thâu nhận vào bên trong). Nếu như những điều ở trên hoàn toàn không có, Thiên Lương trở nên lén lén lút lút, soi mói bắt bẻ, không hợp với người khác. Lúc này sẽ phát huy đầy đủ cái tính Hình của Thiên Lương.

Lời bàn : Dịch đến đây, mới thấy được Vương tiên sinh giải thích vì sao Thiên Lương lại hóa khí là Hình Tinh. Cũng là một ý kiến mới, khi ông cho rằng Thiên Lương có thêm tính chất Cương-Khắc-Cô-Kỵ. Nhưng trên thực tế, và theo các tài liệu, quan điểm khác thì dường như tính chất này không rõ ràng lắm, có phần mờ nhạt. Nhưng ở đây, Vương tiên sinh rất coi trọng cái cách Thiên Lương gặp Hình Kỵ, có lẽ đây là quan điểm riêng của ông, cũng là một điều cần chiêm nghiệm. Tất nhiên, là tính chất của Thiên Lương cũng như bất kể một sao nào, đều phụ thuộc vào cái sự miếu hãm của nó, chứ không hẳn chỉ có đắc cách như Vương tiên sinh nhận xét. Cái điều Vương tiên sinh luận rằng “tiên phá hậu lập” rất xuất sắc, bởi vì Lương là Ấm tinh, vốn là thừa hưởng của tiền nhân để lại, ở đời mấy ai giữ được, nếu không phải là nội lực tự cường. Việc Lương gây nên sự biến đổi họa phúc lớn của đời người, chưa hắn chỉ có thế, có lẽ cần xem xét thêm các điều kiện khác nữa chăng.
 
Top