Trong Hán Việt Dịch Lược Sử GS Nguyễn Hữu Quang đã sưu tầm và dịch một lượng kiến thức Cổ Học Đông Phương đồ sộ, có nhiều bài dịch từ sách cổ quý hiếm, trong đó có Dịch Long Đồ
Trần-Đoàn (871-989), tự Đồ-Nam, hiệu Phù-dao-tử có viết ra một quyển Dịch Long-Đồ mà bài Tựa có chép trong Dịch Dực-truyện cuả Song-hồ Hồ Nhất-Quế, bảo rằng Long-mã-đồ có chỗ số chưa hợp, thửa thuyết rất chi ly, không thể hiểu được. Giữa bài có vài lời rất phân-minh rằng: thoạt đầu long-đồ chưa hợp. Duy số 55, ở trên số 25 là thiên-số, ở dưới số 30 là điạ-số. Ở trên ắt 1 không dùng. Hình 24 ở dưới ắt 6 không dùng, cũng là 24. Bản-chú nói: Trung-tâm thượng-vị bỏ số 1 thấy số 24, trung-tâm hạ-vị bỏ số 6 cũng thấy số 24, lấy một tuế là 36 tuần (1 tuần = 10 ngày), đi giáp vòng là được 24 tiết-khí vậy. Ta nhân đó nghĩ rằng trong long-đồ này thủy-thổ đổi chỗ, 1-6 thay 5-10 ở trung-cung, mà 5-10 ra thế chỗ cuả 1-6 vậy. Thủy-thổ vốn đồng-căn. Trời đất và nhân-thân, ban đầu từ thuỷ tới, nhưng dần dần ngưng thành thổ. Nên trong Hà-đồ 1-6 thủy biến ra 5-10 khôn-cấn thổ. Đó là lý-do tại sao thủy-thổ đổi chỗ. 5-10 đã đổi chỗ mà cư bắc. Nam-bắc đối nhau có 24 chấm, đông-tây đối nhau cũng có 24 chấm, không những chỉ ứng vào 24 tiết-khí mà còn ứng vào 24 sơn-hướng. Nhân-thân hai bên trái phải đều có 24 kinh-mạch, xương sống trong lưng có 21 đốt, cổ có 3 đốt nữa, vị chi là 24 đốt. Một ngày có 12 giờ, mỗi giờ chia đôi thành 24 tiếng đồng-hồ. Nay dựa vào đó mà vẽ đồ, mệnh-danh là Hà-đồ Biến-thể, xưa nay chưa từng có.
Đồ này không những chí ứng với 24. Thiên-can lý-số hợp-hoá cũng đều ở đó mà ra cả. Giáp với kỷ hợp-hoá thành thổ. Ất với canh hợp-hoá thành kim. Bính với tân hợp-hoá thành thủy. Đinh với nhâm hợp-hoá thành mộc. Mậu với quý hợp-hoá thành hoả. Thuyết bảo là cái gì gốc cũng khởi từ tý. Gặp thìn là hoá. Giáp-kỷ khởi giáp-tý, được mậu-thìn. Ất-canh khởi bính-tý, được mậu-dần. Bính-tân khởi mậu-tý, được nhâm-thìn. Đinh-nhâm khởi khởi canh-tý, được giáp-thìn. Mậu-quý khởi nhâm-tý, được bính-thìn. Nên theo thìn đến can là hoá. Thìn là rồng, rồng là biến-hoá (ngộ long tắc hoá). Nên thuyết này hợp lý, vì không có sở dĩ nhiên.
Nay xem đồ này, bèn là Biến-thể Hà-đồ, hợp với chính-thể Hà-đồ, nhân có số cuả thập can hợp-hoá vậy. Giáp 1, kỷ 6 cư trung được thổ-khí cuả 5-10 trung-ương. Nên giáp kỷ hoá thổ. Mậu 5, quý 10 cư bắc, được 1-6 hoả-khí ở phương bắc, Nên mậu-quý hoá hoả. Bính 3, tân 8 cư đông, đuợc thủy-khí 3 + 8 = 11 cuả cuả phương đông. Nên bính-tân hoá thủy. Đinh 4, nhâm 9 cư tây, đuợc mộc-khí 4 + 9 = 13 cuả phương tây. Nên đinh-nhâm hoá mộc. Ất 2, canh 7 cư nam, kim-khí 2 + 7 = 9 cuả phương nam. Nên ất-canh hoá kim. Thảng hoặc thủy-thổ không đổi chỗ, ắt giáp 1, kỷ 6 ở phương bắc đáng hoá hoả, làm sao mà hoá thổ được ? Mậu 5 quý 10 cư trung, lý ra hoá thổ, làm sao mà hoá hoả được ? Thế mới biết Hà-đồ tất có số biến-thể vậy. Thập can hợp-hoá theo biến-số. Nên lần theo thìn mà hoá-số. Thìn không những tượng-trưng biến-hoá cuả rồng. Thìn là thổ phuơng đông, mà cũng là mộ-điạ cuả thủy bắc-phuơng. Tức thị cung thìn kiêm thủy-thổ. Nên thủy-thổ có lý biến-dịch. Ghập can hợp-hoá ngũ-hành, ứng-dụng to tát. Nên biết tạo-hoá kỳ-diệu đên thế vậy thay.
Hà đồ biến thể cùng với thuyết nạp âm sẽ có tác dụng định vi nguồn gốc chính tinh.
Trần-Đoàn (871-989), tự Đồ-Nam, hiệu Phù-dao-tử có viết ra một quyển Dịch Long-Đồ mà bài Tựa có chép trong Dịch Dực-truyện cuả Song-hồ Hồ Nhất-Quế, bảo rằng Long-mã-đồ có chỗ số chưa hợp, thửa thuyết rất chi ly, không thể hiểu được. Giữa bài có vài lời rất phân-minh rằng: thoạt đầu long-đồ chưa hợp. Duy số 55, ở trên số 25 là thiên-số, ở dưới số 30 là điạ-số. Ở trên ắt 1 không dùng. Hình 24 ở dưới ắt 6 không dùng, cũng là 24. Bản-chú nói: Trung-tâm thượng-vị bỏ số 1 thấy số 24, trung-tâm hạ-vị bỏ số 6 cũng thấy số 24, lấy một tuế là 36 tuần (1 tuần = 10 ngày), đi giáp vòng là được 24 tiết-khí vậy. Ta nhân đó nghĩ rằng trong long-đồ này thủy-thổ đổi chỗ, 1-6 thay 5-10 ở trung-cung, mà 5-10 ra thế chỗ cuả 1-6 vậy. Thủy-thổ vốn đồng-căn. Trời đất và nhân-thân, ban đầu từ thuỷ tới, nhưng dần dần ngưng thành thổ. Nên trong Hà-đồ 1-6 thủy biến ra 5-10 khôn-cấn thổ. Đó là lý-do tại sao thủy-thổ đổi chỗ. 5-10 đã đổi chỗ mà cư bắc. Nam-bắc đối nhau có 24 chấm, đông-tây đối nhau cũng có 24 chấm, không những chỉ ứng vào 24 tiết-khí mà còn ứng vào 24 sơn-hướng. Nhân-thân hai bên trái phải đều có 24 kinh-mạch, xương sống trong lưng có 21 đốt, cổ có 3 đốt nữa, vị chi là 24 đốt. Một ngày có 12 giờ, mỗi giờ chia đôi thành 24 tiếng đồng-hồ. Nay dựa vào đó mà vẽ đồ, mệnh-danh là Hà-đồ Biến-thể, xưa nay chưa từng có.
Đồ này không những chí ứng với 24. Thiên-can lý-số hợp-hoá cũng đều ở đó mà ra cả. Giáp với kỷ hợp-hoá thành thổ. Ất với canh hợp-hoá thành kim. Bính với tân hợp-hoá thành thủy. Đinh với nhâm hợp-hoá thành mộc. Mậu với quý hợp-hoá thành hoả. Thuyết bảo là cái gì gốc cũng khởi từ tý. Gặp thìn là hoá. Giáp-kỷ khởi giáp-tý, được mậu-thìn. Ất-canh khởi bính-tý, được mậu-dần. Bính-tân khởi mậu-tý, được nhâm-thìn. Đinh-nhâm khởi khởi canh-tý, được giáp-thìn. Mậu-quý khởi nhâm-tý, được bính-thìn. Nên theo thìn đến can là hoá. Thìn là rồng, rồng là biến-hoá (ngộ long tắc hoá). Nên thuyết này hợp lý, vì không có sở dĩ nhiên.
Nay xem đồ này, bèn là Biến-thể Hà-đồ, hợp với chính-thể Hà-đồ, nhân có số cuả thập can hợp-hoá vậy. Giáp 1, kỷ 6 cư trung được thổ-khí cuả 5-10 trung-ương. Nên giáp kỷ hoá thổ. Mậu 5, quý 10 cư bắc, được 1-6 hoả-khí ở phương bắc, Nên mậu-quý hoá hoả. Bính 3, tân 8 cư đông, đuợc thủy-khí 3 + 8 = 11 cuả cuả phương đông. Nên bính-tân hoá thủy. Đinh 4, nhâm 9 cư tây, đuợc mộc-khí 4 + 9 = 13 cuả phương tây. Nên đinh-nhâm hoá mộc. Ất 2, canh 7 cư nam, kim-khí 2 + 7 = 9 cuả phương nam. Nên ất-canh hoá kim. Thảng hoặc thủy-thổ không đổi chỗ, ắt giáp 1, kỷ 6 ở phương bắc đáng hoá hoả, làm sao mà hoá thổ được ? Mậu 5 quý 10 cư trung, lý ra hoá thổ, làm sao mà hoá hoả được ? Thế mới biết Hà-đồ tất có số biến-thể vậy. Thập can hợp-hoá theo biến-số. Nên lần theo thìn mà hoá-số. Thìn không những tượng-trưng biến-hoá cuả rồng. Thìn là thổ phuơng đông, mà cũng là mộ-điạ cuả thủy bắc-phuơng. Tức thị cung thìn kiêm thủy-thổ. Nên thủy-thổ có lý biến-dịch. Ghập can hợp-hoá ngũ-hành, ứng-dụng to tát. Nên biết tạo-hoá kỳ-diệu đên thế vậy thay.
Hà đồ biến thể cùng với thuyết nạp âm sẽ có tác dụng định vi nguồn gốc chính tinh.
Chỉnh sửa cuối: