Tính chất cơ bản 14 chính tinh (Tam hợp trung châu)

tuetvnb

Trúc Phong Ẩn Sĩ
TÍNH CHẤT CƠ BẢN CỦA CÁC SAO
(trích Tam Hợp Trung Châu phái - Nguyễn Anh Vũ dịch)

Trong Tử Vi Đẩu số, có 14 sao tối quan trọng đều là các chính diệu của tinh hệ Bắc Đẩu hoặc tinh hệ Nam Đẩu, cộng thêm hai sao Thái Dương và Thái Âm là chủ tinh của tình hệ Trung Thiên, cấu tạo thành các “tổ hợp tinh hệ” trong tinh bàn. Do đó gọi là 14 chính diệu.

Tên gọi của 14 chính diệu và phân thuộc như sau:

+ Tử Vi là tinh chủ của Bắc Đẩu, thuộc thổ.

+ Tham Lang là sao thứ nhất của Bắc Đẩu, thuộc mộc

+ Cự Môn là sao thứ hai của Bắc Đẩu, thuộc thổ

+ Liêm Trinh là sao thứ năm của Bắc Đẩu, thuộc hỏa

+ Vũ Khúc là sao thứ sáu của Bắc Đẩu, thuộc kim.

+ Phá Quân là sao thứ bảy của Bắc Đẩu, thuộc thủy.

(Sao thứ ba của Bắc Đẩu là Lộc Tồn, thuộc thổ; sao thứ tư là Văn Khúc, thuộc thủy. Do điều kiện đặc thù của nhóm hợp thành tinh hệ nên không liệt vào hàng chính diệu).

+ Thiên Phủ tình chủ của Nam Đẩu, thuộc thổ.

+ Thiên Cơ là sao thứ nhất của Nam Đẩu, thuộc mộc.

+ Thiên Tướng là sao thứ hai của Nam Đẩu, thuộc thủy.

+ Thiên Lương là sao thứ ba của Nam Đẩu, thuộc thổ.

+ Thiên Đồng là sao thứ tư của Nam Đẩu, thuộc thủy.

+ Thất Sát là sao thứ năm của Nam Đẩu, thuộc kim.

(Ngoài ra còn có sao thứ sáu của Nam Đẩu là Văn Xương, thuộc kim; cũng do điều kiện đặc thù của nhóm hợp thanh tinli hệ nên không liệt vào hàng chính diệu).

+ Thái Dương là tinh chủ của Trung Thiên, thuộc hỏa.

+ Thái Âm là tinh chủ của Trung Thiên, thuộc thủy.

Mười bốn chính diệu bày bố trong tinh bàn, do quan hệ đồng cung mà câu tạo thành một số tổ hợp cơ bản, như “Tử Vi, Tham Lang”, “Tử Vi, Thiên Phủ”, “Thiên Cơ, Cự Môn”, “Liêm Trinh, Thất Sát”, mỗi tổ hợp đều có tính chất cơ bản riêng, do đó thành các “tinh hệ” đơn giản nhất.

Từ trong các mối quan hệ hội chiếu của những tinh hệ đơn giản, liên lạc hỗ tương mà thành những tinh hệ phức tạp, như tổ hợp bốn sao Thiên Cơ, Thái Âm, Thiên Đổng, Thiên Lương là cách cục nổi tiếng “Cơ Nguyệt Đồng Lương”; tổ hợp bốn sao Thất Sát, Phá Quân, Liêm Trinh, Tham Lang là cách cục “Sát Phá Liêm Tham”. Nhưng trên thực tế, khi dùng Đẩu Số để luận mệnh, vốn cần phải xem xét sự biến Hóa khi các tinh hệ đơn giản hội hợp với nhau. Do đó không cần phải ghi nhớ các tinh hệ phức tạp. Tức là, khi nghiên cứu Đẩu số, trước tiên bạn cần phải hiểu rõ tính chất cơ bản của các tinh hệ đơn giản,

Những tinh hệ này sẽ hội hợp hoặc đồng cung Với các sao khác không phải là chính diệu, nhất định sẽ xuất hiện những biến hóa đặc thù. Như “Thái Dương, Thiên Lương” vốn mang tính chất hình, kị, tai nạn, nhưng gặp Văn Xương và Lộc Tồn, lại cấu tạo thành cách “Dương Lương Xương Lộc” đại lợi cho thi cử hoặc tuyển chọn đề bạt. “Thái Âm, Thiên Cơ” vốn chủ về thông minh cơ trí và khéo léo, nhưng khi đồng cung hay hội chiếu với Văn Khúc, lại chủ về tính cách dao động trôi nổi, bất lợi cho sự nghiệp. Lúc luận đoán Đẩu số, cần lưu ý những biến hóa này, có thế nói đó là điều kiện ta có.

Nói cách khác, tình hệ là bản thể, sau khi hội hợp với tinh hệ khác hoặc sao khác thì bản thể này sẽ xảy ra sự thay đổi tính chất. Theo Vương Đình Chi, học Đẩu số, thực ra cũng chính là hiểu rõ tính chất và sự biến hóa của bản thể trong tình huống cụ thể ở 12 cung mà thôi. Như “Thiên Đồng, Thái Âm” ở cung mệnh hay cung thân là chủ về hướng nội, nhưng ở cung huynh đệ thì chủ về có nhiều chị.

Trước khi tìm hiểu tính chất và sự biến hóa của các tinh hệ, bạn cần phải hiểu một cách tỉ mỉ 14 chính tinh tổ hợp thành các tinh hệ cơ bản
 

tuetvnb

Trúc Phong Ẩn Sĩ
SAO TỬ VI

Tử Vi miếu ở ba cung Sửu Ngọ Mùi, không ưa hai cung Thìn Tuất

Tử Vi thuộc âm thổ, là Bắc Đẩu chủ tinh. Trong 14 chính diệu của Đẩu Số nó là lãnh đạo của các sao, cho nên cổ nhân gọi là Đế diệu, ví với hoàng đế:

Do ví với hoàng đế, nên dễ nhớ đặc tính của Tử Vi như sau:

-Có khí quý phái, có tài lãnh đạo, có phong thái của người ra lệnh. Còn tài năng lãnh đạo có hoàn mĩ hay không, mệnh lệnh có chính xác không, thì cần phải xem Tử Vi ở cung vị nào, và hội hợp với các sao ở tam phương tứ chính cát hung ra sao mói định được.

-Có lực điều giải, tức là giỏi khống chế và làm thay đổi cho nên Tử Vi có thể kềm chế các sao hung hãm như Hỏa Tinh, Linh Tinh, Kình Dương, Đà La, Địa Không, Địa Kiếp, Hóa Kị. Nhưng lại không tránh được ảnh hưởng của ám tinh Cự Môn, Bởi vì, hoàng đế tuy có thể nhiếp phục quần thần, nhưng lại dễ thích nghe lời sàm tấu, Cự Môn giống như nịnh thần hay sàm tấu, có thể gây ảnh hưởng đến sự biếu hiện của Tử Vi.

- Có lực khắc chế, là nói đối với hai sao Thất Sát, Phá Quân. Phá Quân tuy giống như tướng soái ở ngoài trận địa, không nhận mệnh lệnh của quân vương, nhưng không có Thất Sát làm sao tâu báo với Tử Vi. Nhưng “Tử Vi, Phá Quân” đồng cung, cũng có thể biến lực phá hoại của Phá Quân thành lực khai sáng.

- Có lực cạnh tranh, đặc biệt là đối thủ càng mạnh thì đấu chí của Tử Ví càng mạnh

Nếu như hội hợp với các sao có sự trợ giúp cho lực cạnh tranh như Thiên Phủ, Thiên Tướng, Hóa Quyền, Hóa Khoa, thì càng không dễ nhượng bộ, giống như bậc quân vương lấy xã tắc làm trọng.

- Có lòng tự tôn, mà còn có tính cách mạnh mẽ, giống như hoàng đế nhất định phải giữ sự tôn nghiêm của bản thân. Cho nên về tính cách thường có biểu hiện tự cao tự đại, thiện ác tùy tâm. Nếu nó hội chiếu với sát tinh, mà không có sao cát, thì dễ kích động theo kiểu thương thì cho sống, ghét thì cho chết nhưng khi ở trong nghịch cảnh, Tử Vi lại có thể giấu nỗi khổ trong long, không chịu biếu lộ.

Vì Tử Vi là đế diệu, cho nên rất ưa trăm quan đứng chầu (bách quan triều củng), rất kị quần thần xa lánh (tại dã cô quân). Bách quan và quần thần, là chỉ các sao Tả Phụ, Hữu Bật, Văn Xương, Văn Khúc, Tam Thai, Bát Tọa, Ân Quang, Thiên Quý, Lộc Tồn, Thiên Mã, Thiên Khôi, Thiên Việt. Tuy Tử Vi cũng ưa Thiên Phủ, Thiên Tướng triều củng, nhưng vẫn không bằng cách cục “Bách quan triều củng”. Cho nên Tử Vi đóng ở cung mà được “bách quan triều củng”, thì có thể đại phú đại quý; còn được “Phủ Tướng triều viên” thì chi là cách cục không thấp, nếu chỉ mang đặc tính của Tử Vi để phát huy mà thôi thì chưa chắc có thể phú quý.

Nếu không có “trăm quan đứng chầu”, mà là “quần thần xa lánh”, giả dụ như ngay cả “Phủ Tướng triều viên” cũng không có, thế thì giống như vị vua cô độc nơi hoang dã (tại dã cô quân). Lúc này Tử Vi sẽ có biểu hiện xử sự thiếu hòa hợp, đây là do sự tôn quý của hoàng đế, vì vậy khác với tư tưởng của người thường.

“Tại dã cô quân” lại gặp Địa Không, Địa Kiếp, và Tứ sát, thì chỉ thích hợp phát huy tư tưởng siêu thoát, cho nên cổ nhân cho rằng trường hợp này thích hợp làm tăng nhân, đạo sĩ. Nhưng ở thời hiện đại, có thể phát triển thành nhân vật có tư tưởng đặc biệt. Nếu gặp được Tham Lang, Thiên Tài, hoặc Liêm Trinh, thì có khả năng là nghệ thuật gia hoặc nhà thiết kế. Nhưng nếu “tại dã cô quân” gặp các sao sát, không, còn tương hội với Thái Âm, thì trái lại, tư tưởng siêu thoát sẽ không phát huy. Do ảnh hưởng của Thái Âm, sẽ biến thành người hí lộng thủ đoạn, thích giở mánh khóe.

Ngoại trừ “tam phương tứ chính”, Tử Vi còn chịu ảnh hưởng của hai cung ở bên trái và bên phải. Nó rất ưa Tả Phụ, Hữu Bật giáp cung, kế đến là Văn Khúc, Văn Xương giáp cung.

Nếu gặp phải Hỏa Tinh, Linh Tinh giáp cung; hoặc Kình Dương, Đà La giáp cung; thì Tử Vi có khả năng trờ thành bạo chúa, cũng tức là phát huy toàn bộ tính chất xấu của nó.
 

tuetvnb

Trúc Phong Ẩn Sĩ
SAO THIÊN CƠ

Thiên Cơ miếu ở hai cung Tí, Ngọ; hãm ở hai cung Sửu, Mùi.

Thiên Cơ là sao thứ nhất của Nam Đẩu, ngũ hành thuộc âm mộc, Hóa khí là “thiện” (khéo léo).

Tính chất cơ bản của Thiên Cơ là mưu trí, quyền biến và linh hoạt, có thể ví với mưu sĩ hoặc quân sư.

Nói về phương diện tốt, Thiên Cơ chủ về thông minh, nhạy bén, xử sự có mạch lạc, lớp lang, cho nên học hành giỏi giang, có thể trở thành người đa tài đa nghệ. Vả lại, nhờ đặc tính thông minh, nhạy bén, người này lâm sự phản ứng khá lanh lẹ, đối với người thì khéo ăn khéo ở.

Do các đặc tính trẽn, nên Thiên Cơ có phẩm cách về trí tuệ, giỏi động não, cũng sở trường về phân tích và vạch kế sách, kiêm có kĩ năng chuyên môn, đây đều là đặc tính của mưu thần và quân sư.

Nói về phương diện khuyết điểm, Thiên Cơ có đặc tính hay lo nghĩ quá đáng, thường lao tâm khổ tứ. Cho nên có biểu hiện không thể kiên trì trong một kế hoạch. Bởi vì khi tiến hành kế hoạch tới một giai đoạn nào đó, người này sẽ vì suy nghĩ tính toán quá nhiều nên muốn thay đổi kế hoạch. Nói cụ thể hơn, người có Thiên Cơ thủ cung mệnh dễ có tính đứng núi này trông núi nọ, học nhiều mà không thực tế: dục vọng quá cao... Thiên Cơ thủ mệnh không nên kinh doanh làm ăn, đặc biệt không nên tự sáng lập sự nghiệp, mà chỉ nên làm công việc vạch kế sách. Nếu không, khi tự kinh doanh, sẽ dễ vì động não quá nhanh mà không kiên trì, dẫn đến thất bại.

Thiên Cơ khác với Tử Vi nó không có khí quý phái của bậc hoàng đế, cho nên sức đề kháng và Hóa giải các sao hung, sát, kị, hình rất yếu ớt Thiên Cơ rất ngại Hóa Kị, khiến cho các ưu điếm của bản thân không thể phát huy, mà khuyết điểm thì bộc phát hoàn toàn.

Thiên Cơ cũng tương phản với Tử Vi ở chỗ nó không kị Cự Môn, Cự Môn gây ảnh hưởng đối với Thiên Cơ, chỉ là dễ xảy ra điều tiếng thị phi sau lưng, nhất là sai lầm về lời nói.
 

tuetvnb

Trúc Phong Ẩn Sĩ
SAO THÁI DƯƠNG

Thái Dương miếu ở hai cung Mão, Ngọ; hãm ở bốn cung Tuất, Hợi, Tí, Sửu.

Thái Dương là chủ tinh của Trung Thiên, không thuộc Nam Đẩu hay Bắc Đẩu, ngũ hành thuộc dương hỏa, Hóa khí thành “quý”.

Trong Đẩu số, ba sao Tử Vi, Thiên Phủ, Thái Dương chia ra làm chủ Bắc Đẩu, Nam Đẩu và Trung Thiên, có đặc tính khác nhau. Ánh sáng chói lọi và uy lực của Thái Dương thậm chí so với Tử Vi có lúc còn trải rộng và xa hơn. Nhưng ánh sáng và nhiệt của Thái Dương chỉ cho ra mà không nhận vào, cho nên đặc tính chủ yếu nhất của Thái Dương, là chủ về quý mà không chủ về phú, chủ về danh mà không chủ về lợi.

Nếu nói về việc làm của con ngươi, thì Tử Vi là đế tọa (ngai vàng), Thiên Phủ là quản kho tiền, Thái Dương thì quản chức tước. Đây là biểu hiện cụ thể tính chất chủ về quý mà không chủ về phú của Thái Dương.

Do tính chất này, Thái Dương rất nên đóng ở cung sự nghiệp (tức cung quan lộc), trong đó ở hai cung Tị, Ngọ là rất có khí thế. Bởi vì ở cung Tị là Thái Dương sắp lên đến giữa trời, ở cung Ngọ là ở giữa trời, cho nên khí thế vô cùng. Nếu ở cung vị lạc hãm, thì chủ về vì sự nghiệp mà lao tâm khổ tứ, vất vả.

Thái Dương là chủ tinh của Trung Thiên, do đó cùng dạng với Tử Vi, thích “bách quan triều củng”, ưa được các sao quý cát Tả Phụ, Hữu Bật, Thiên Khôi, Thiên Việt, Văn Xương, Văn Khúc, Tam Thai, Bát Tọa, Ân Quang, Thiên Quý hội chiếu. Nếu không được trăm quan đứng chầu, mà còn gặp Tứ sát hoặc sát tinh nhiều mà cát tinh ít, thì chủ về phát lên một cách nhanh chóng, rồi suy sụp cũng rất nhanh chóng, phú quý không được lâu. Nếu cát tinh nhiều sát tinh ít, thì chủ về tâm cao khí ngạo.

Thái Dương ngoài việc kị tứ sát Hỏa Tinh, Linh Tinh, Kình Dương, Đà La, còn rất ghét Cự Môn. Vì Cự Môn là “ám tinh”, có thể che ánh sáng của Thái Dương. Nó cũng không ưa bản thân Hóa Kị, sẽ bất lợi về mắt.

Thái Dương lạc hãm ở bốn cung Tuất, Hợi, Tí, Sửu. Ở cung Tuất chủ về mắt có tật loạn thị, lòa mắt; ở cung Hợi là cách cục “Nhật Nguyệt phản bối”, nếu hội các sao Lộc Tồn, Hóa Lộc, Thiên Mã, thì gọi là “Lộc Mã giao trì”, thì trái lại, sẽ vừa phú vừa quý.

Thái Dương nhập Mộ ở hai cung Mão, Ngọ. Ở cung Mão là “mặt trời mọc ở phương đông”, chủ về người có tính chất nắm quyền; ở cung Ngọ là “Nhật lệ Trung Thiên” (mặt trời chói lọi giữa trời), quyền lộc tuy trọng, nhưng ánh sáng của Thái Dương quá mãnh liệt, nên cũng dễ mắc bệnh tật ở mắt.

Ở nam mệnh, Thái Dương là cha, là con trai; ở nữ mệnh, Thái Dương là cha, là chồng, và là con trai. Phàm Thái Dương ở cung mệnh, nói chung, hơi có tính chất hình khắc đôi với phái nam trong lục thân. Mức độ hình khắc tùy theo cung vị, và các sao cát hung đồng cung hay hội chiếu.

Thái Dương ở cung Ngọ, ánh sáng của mặt trời mãnh liệt, cho nên mức độ hình khắc đối với phái nam trong lục thân, thông thường cũng lớn hơn ở các cung khác.

Ngoài ra, phàm Thái Dương ở cung mệnh, nên là người sinh vào ban ngày, không nên là người sinh vào ban đêm. Người sinh vào ban đêm mà ở cung hãm, dù không hội các sao hình sát, mức độ hình khắc phái nam trong lục thân vẫn lớn. Nếu người sinh vào ban ngày, thông thường mức độ sẽ giảm nhẹ

Thái Dương chiếu khắp vạn vật, cho nên chủ về khảng khái, hiền từ, rộng lượng. Nhưng nếu ở cung hãm thì dễ thành màu mè mà không có thực chất. Nữ mệnh Thái Dương, chủ về có chí hướng của đàn ông, hiền thục mà có chủ kiến, về phương diện tình cảm không dễ xảy ra tình huống lúng túng, khó xử. Có điều, nếu có Hỏa Tinh đồng cung, thì dễ xử sự bằng tình cảm.
 

tuetvnb

Trúc Phong Ẩn Sĩ
SAO VŨ KHÚC

Vũ Khúc miếu ở bốn cung Thìn Tuất Sửu Mùi hãm ở cung Mão.

Vũ Khúc là sao thứ sáu của Bắc Đẩu, thuộc âm kim, Hóa khí làm “tài” (tiền tài).

Về phương diện tính cách, Vũ Khúc chủ về quyết đoán mau lẹ, khuyết điểm của nó là suy nghĩ nông cạn. Người có nó thủ mệnh có thể phát nhanh mà cũng có thể bại nhanh.

Vũ Khúc tính cương, vì vậy không nên có thêm Hỏa Tinh, Linh Tinh đồng độ. Nếu gặp chúng, ắt dễ vì xung động nhất thời mà xảy ra tai ách, khi hóa giải nạn tai sẽ phải trả giá rất đắc.

Do tính cương, Vũ Khúc cũng không nên gặp các sao văn (Văn Xương, Văn Khúc, Hóa Khoa), nếu không sẽ chủ về do dự, thiếu quyết đoán, nhưng bề ngoài thì giống như rất có chủ kiến, dẫn đến xử sự tiến thoái không hợp lí, giống như người có văn tài mà làm công việc quản lí về quân sự, đương nhiên không thích hợp.

Trong Đẩu số, Vũ Khúc tuy không phải là chiến tướng giống như Thất Sát và Phá Quân giong ruổi nơi sa trường, nhưng xét ở góc độ tính cương thì cũng được liệt vào hàng quan võ, cho nên nói chung cũng có chút tính cô độc và hình khắc, không nhu hòa như các sao văn. Võ cương văn nhu là đặc tính cơ bản.

Vũ Khúc ngại Hóa Kị hơn các sao văn, Nếu Hóa Kị sẽ chủ về sự nghiệp thất bại, tiền tài hao tán, gặp sát tinh thì nên bình tĩnh nhẫn nại, nếu không dễ bị sụp đổ. Nhưng Vũ Khúc lại rất ưa Hóa Lộc, chủ về nguồn tiền tài như ngòi suối; nếu lại gặp thêm Lộc Tồn, Thiên Mã, thì chủ về phát ở tha hương.

Do tính cương, cô độc và hình khắc, nên cũng bất lợi về hôn nhân, chủ về kết hôn muộn hoặc sinh li tử biệt. Nhẹ thì vợ chổng gần nhau thì ít mà xa nhau thì nhiều, hoặc vợ chồng không hòa thuận; nặng thì phu thê li tán. Nếu gặp Hóa Kị, Hỏa Tinh, Cô Thần, Quả Tú, thì phải xem sao hung nhiều ít, và Vũ Khúc ở cung nào, để phán đoán mức độ hôn nhân bất lợi.

Nữ mệnh Vũ Khúc, chủ về vợ đoạt quyền chồng, nhưng cũng chủ về phụ nữ có khí khái của bậc trượng phu. Nếu có các sao Tả Phụ, Hữu Bật Tam Thai, Bát Tọa hội chiếu, là người phụ nữ tài giỏi; gặp thêm Khoa, Lộc, Quyền và Thiên Hình, thì quyền hành bổng lộc tiếng tăm đều lớn, ắt là người có địa vị cao trong xã hội, nhưng bất lợi vê hôn nhân.

Nữ mệnh Vũ Khúc mà rơi vào hãm địa, gặp tứ sát, chủ về hình khắc cô độc; gặp thêm Hóa Kị, thì có nguy cơ hung vong.

Bất kể nam nữ, Vũ Khúc thủ mệnh, có Thiên Khôi, Thiên Việt, mà không có Kình Dương, Đà La, Hỏa Tinh, Linh Tinh, Địa Không, Địa Kiếp xung hội hoặc đồng độ, đều chủ về có thể nắm đại quyền về kinh tế, nên làm việc trong giới làm ăn kinh doanh.
 

tuetvnb

Trúc Phong Ẩn Sĩ
SAO THIÊN ĐỒNG

Thiên Đồng miếu ở ba cung Mão, Tị, Hợi; hãm ở ba cung Sửu Ngọ Mùi.

Thiên Đồng là sao thứ tư của Nam Đẩu, thuộc dương thủy, Hóa khí là “phúc'

Trong Đẩu số, Thiên Đồng được ví là vị thần chuyên trông coi việc ăn uống, sắp xếp yến tiệc cho hoàng đế, vì vậy đặc tính của nó là hưởng thụ, khuyết điểm là lãng phí và nhu nhược.

Có một khái niệm khá phổ biến, cho rằng “Thiên Đồng ở trong 12 cung đều là phúc trạch”, thực ra không phải vậy. Theo Vương Đình Chi, thậm chí có thể nói, Thiên Đồng ở 12 cung đều có khuyết điểm.

Nói về cung mệnh, người có Thiên Đồng thủ mệnh, cát thì chủ về khiêm tốn, thông minh mẫn tiệp, phong thái cao thượng thanh nhã; nếu hung thì chủ về chìm đắm trong dục lạc, hay do dự, thiếu quyết đoán, hoặc chỉ có kế hoạch tốt mà không thực hiện.

Thiên Đồng úy kị tính cứng rắn, hình khắc của Hỏa Tinh và Linh Tinh, nhưng lại không sợ Kình Dương. Đồng độ hoặc hội hợp với Kình Dương ở cung Ngọ, gọi là “Mã đầu đới tiễn”, trái lại, sẽ chủ về có thể nắm đại quyền trong quân đội hay cảnh sát

Thiên Đồng ở cung Hợi không ưa Hóa Kị. Nếu can của cung Hợi Hóa Kị, lại hội tứ sát Địa Không Địa Kiếp và Thiên Hình, thì chủ về hình khắc cô độc, hoặc bị tai nạn bệnh tật làm tổn thọ.

Rất ưa tọa cung Tuất gặp Cự Môn Hóa Kị ở đối cung (tức cung Thìn), gọi là “phản bối”; được Lộc Tồn hoặc Hóa Lộc hội hợp, là hết cơn bĩ cực đến hổi thái lai, biến thành mệnh đại quý.

Nữ mệnh Thiên Đổng, cuộc sống thường sung túc, nhưng dễ cảm thấy tinh thần trống rỗng. Cho nên cổ nhân cho rằng “nữ mệnh Thiên Đồng cư Tị Hợi nhập miếu, thì đẹp mà dâm” Luận đoán này là suy diễn ra từ tính chất tinh thần trống rỗng. Ở phương diện sự nghiệp hoặc phương diện sở thích, nếu có thể làm cho sinh hoạt tinh thẩn trở nên phong phú thì vẫn tránh được, đời sống hôn nhân sẽ, được vui vẻ.

Phàm Thiên Đồng đóng ở cung mệnh, hoặc ở cung phúc đức, chỉ cần không có Hóa Kị, phần nhiều chủ về có tài năng âm nhạc, hoặc ưa thích cái đẹp, do đó chẳng khó tìm nơi để kí thác về phương diện tinh thần.

Bất kể nam nữ, nếu Thiên Đồng thủ mệnh, gặp sao sát, hình thì trái lại, có thể có năng lực khai sáng, mà không sầu muộn về phương diện tinh thần. Nếu chỉ gặp sao cát mà không gặp các sao sát, hình, thì trái lại dễ chìm đắm trong lạc thú, trở thành phóng đãng. Đây giống như thời xưa, Hoàng đế không có trung thần can gián, lại không gặp họa loạn, dễ vì lời sàm tấu của nịnh thần mà biến thành hôn quân.
 

thanhdanhulsa2

Thành viên nhiệt tình
Cháu chào ông
Cháu là đứa tò mò, thấy khác lạ là cháu hỏi, chứ cháu chẳng có ý gì, nếu có gì mạo phạm mong ông bỏ quá cho (Kẻ không biết thì không có tội) :(

Đây là phần kiến thức cháu copy paste, để dành lâu rồi từ bên diễn đàn tuvilyso

Hỏi Tham Lang chủ định như thế nào?
Đáp viết: Tham Lang là sao thứ nhất thuộc Bắc Đẩu, là thần của cung Tật Ách. Ngũ hành thuộc Thủy, hóa khí là Đào Hoa, là tiêu chuẩn, chính là thần chủ của họa phúc.

:D cháu mệnh tham lang, nên cháu chỉ chú ý mỗi tham lang, cháu thấy ông có viết:
Tham lang là sao thứ nhất của Bắc Đẩu, thuộc mộc

Mong ông chỉ giúp cháu đúng sai thế nào ạ
Cháu cảm ơn!
 

Whitebear

Thành viên
Thiên Đồng ở cung Hợi không ưa Hóa Kị. Nếu can của cung Hợi Hóa Kị, lại hội tứ sát Địa Không Địa Kiếp và Thiên Hình, thì chủ về hình khắc cô độc, hoặc bị tai nạn bệnh tật làm tổn thọ.
Đây là Kỹ thuật thuần túy bắc phái.
 

tuetvnb

Trúc Phong Ẩn Sĩ
SAO LIÊM TRINH

Liêm Trinh miếu ở ba cung Dần, Mùi, Thân; hãm ở hai cung Tị, Hợi.

Liêm Trinh là sao thứ năm của Bắc Đẩu, ở ngũ hành thì thuộc âm hỏa. Là sao “đào hoa thứ” trong Đẩu số, Hóa khí làm “tù”. Về tính cách, chủ về thông minh mẫn tiệp, bại thì tà ác.

Về phương diện tính cách, người có Liêm Trinh thủ mệnh phần nhiều trọng tình cảm, thiếu lí trí, cho nên là người có phong độ, nhưng lại phóng túng, tận tình. Đây là tính chất cơ bản của sao “đào hoa thứ”.

Do tính chất “đào hoa”, nên Liêm Trinh rất ưa Văn Xương, Văn Khúc. Bởi vì lúc sao văn tương hội với đào hoa, tính chất đào hoa lập tức biến thành nhàn nhã, không chìm đắm trong sắc dục, có thể hóa giải thành thú phong lưu thơ rượu, hoặc chuyển hóa thành lực sáng tạo trong nghệ thuật. Văn học nghệ thuật phần nhiều mang sắc thái tình yêu, đây là đạo hóa giải. Trên thực tế, phàm là người có Liêm Trinh thủ cung mệnh, phần nhiều cũng yêu thích mĩ thuật, có khuynh hướng về thư họa; nếu không, cũng sẽ có cảm thụ khá đặc biệt về thưởng ngoạn, nhất là lúc hội hợp với Tham Lang thì càng đúng.

Nếu không gặp sao văn, mà chỉ hội hợp với các phụ diệu trong Đẩu Số như Thiên Khôi Thiên Việt, Tả Phụ, Hữu Bật, trái lại sẽ dễ làm tăng tính hay lúng túng khó xử của Liêm Trinh, dẫn đến tiến thoái bất an.

Lực đề kháng của Liêm Trinh đối với tứ sát Hỏa Tinh, Linh Tinh, Kình Dương, Đà La, rất yếu. Cho nên hễ Liêm Trình đóng ở cung mệnh, thì cần phải không gặp tứ sát, mới nên chuyện. Nhất là hai cung Tị hoặc Hợi, gặp tứ sát thì chủ về bôn ba tứ hải; nếu gặp thêm Thiên Hình, Đại Hao, Hóa Kị, càng chủ về sống chết ở tha hương.

Liêm Trinh là sao có tính chất biến hóa rất phức tạp, tuy có thuyết “ đào hoa thứ”, nhưng lại không chắc chắn là “mệnh đào hoa”, hoặc có tính cách dâm đãng. Chỉ có một tính chất cơ bản có thể khẳng định, đó là người này tất sẽ có chút lẳng lơ dí dỏm, nhưng nội tâm lại chủ quan cực mạnh, không dễ chiều theo ai.

Tham Lang là “đào hoa chính”, Liêm Trinh là “đào hoa thứ”, cùng thuộc đào hoa, nhưng người Tham Lang thủ mệnh lại khéo ăn khéo ở, khác với Liêm Trinh hơi có chút trôi nổi. Chỗ khác nhau này cần phải phân biệt rõ.

Liêm Trinh tuy dí dỏm nhẹ nhàng, trong giao tế hơi có chút hài hước, nhưng do có tính chất chủ quan mạnh, cho nên không thể thấy anh ta dí dỏm nhẹ nhàng rồi lây đó để bàn công việc

Trên thực tế anh ta rất có thể là một người có tính “làm việc theo nguyên tắc” Lúc hội hợp Địa Không, Địa Kiếp, tính chất này càng rõ rệt, cho nên thích hợp theo đuổi công việc nghiên cứu về phương diện khoa học kĩ thuật, bởi vì công trình khoa học kĩ thuật rất cần ngăn nắp thứ tự. Liêm Trinh đóng ở cung mệnh cũng thích hợp làm về kiến trúc, bởi vì công trình kiến trúc có mang ý vị nghệ thuật.

Liêm Trinh rất ngại Hóa Kị, chủ về bệnh tật máu mủ, Nó cư cung mệnh, cung tật ách và cung Thiên Di, đều có ảnh hường đến vận trình của người đó.
 
Top