Trung Châu Phái - Phụ Tá Sát Hóa diệu luận

kilo

Administrator
Trong Tử Vi Đẩu Số, tác dụng của các sao Phụ diệu, Tá diệu, Sát diệu, Hóa diệu, và Tạp diệu sẽ khiến 60 tinh hệ do 14 chính diệu cấu tạo thành có thể biểu hiện các tính chất phức tạp, để phản ánh sự phức tạp của đời người. Chúng có thể nhuyễn hóa, hoặc làm mạnh thêm, hoặc làm yếu đi bản chất của tinh hệ gốc. Trong khi vận dụng phối hợp, 12 tinh bàn đơn giản ban đầu sẽ trở nên sôi động, thành các tổ hợp thiên biến vạn hóa (một chính và một phản, thành 6 nhóm kết cấu tinh hệ).

Điều tối quan trong của Tử Vi Đẩu Số là chứng nghiệm, sở dĩ có tinh hệ và tính chất của các sao, thực ra cũng là do người xưa chứng nghiệm rồi ghi chép lại. Ta nên căn cứ vào tình hình sinh hoạt của xã hội hiện đại, để bổ xung chứng nghiệm của người xưa, thì chứng nghiệm của "Đẩu Số" mới giữ được sự chính xác theo thời gian.

Theo sự lưu truyền của phái Trung Châu, các sao không phân chia theo cấp (cấp 1, cấp 2, .v.v...) mà được phân chia thành Chính diệu, Phụ diệu, Tá diệu, Sát tinh, Hóa diệu, Tạp diệu và Lưu diệu.

Phụ diệu là 4 sao Tả phụ, Hữu Bật, Thiên khôi, Thiên việt, thông thường người ta cộng thêm Văn xương, Văn khúc, và gọi là "Lục cát tinh".

Trong các Phụ diệu, thì Thiên Khôi và Thiên Việt được gọi là "quý nhân", còn Tả Phụ và Hữu bật được gọi là "trợ thủ".

Lợi ích do Phụ diệu mang lại thuộc về "tha lực" (do các nhân tố khách quan tác động), không phải do cá nhân nỗ lực mà được. Những người được vận tốt, hoàn toàn chỉ là do nắm được thời cơ, mà không phải có người đặc biệt cố tình mang lại lợi ích cho họ. Nếu không có thời cơ thích đáng, những người này dù có nỗ lực theo đuổi cũng không thể có được.

Còn lợi ích do Tá diệu mang lại, thì thuộc về "Tự lực", cần phải trải qua nỗ lực tranh thủ mới có được. Có Văn xương, Văn khúc chiếu mệnh, thông thường chủ về học hành thông minh, nhưng bản thân phải chịu khó học tập mới được. Có Lộc tồn Thiên mã thì có thể làm ăn kinh doanh phát tài, nhưng bản thân cũng phải chịu đi kinh doanh mới được. Cho nên , 4 sao Tá diệu Văn xương - Văn khúc - Lộc tồn - Thiên mã có thể được phát huy, là do "tự lực".

Lợi ích do Tá diệu mang lại, thì nhất định bản thân phải nỗ lực tranh thủ, trái ngược với tính chất của Phụ diệu. Ví dụ như Lộc tồn Thiên mã thông thường chủ về xuất ngoại kinh doanh làm ăn và trở nên giầu có. Nếu cung Mệnh, hoặc cung Di gặp nhóm Tá diệu này, nhưng bản thân Mệnh tạo lại không đi kinh doanh làm ăn, thì nhất định không có được tài phú.

Như đã nói, Văn xương và Văn Khúc chủ về khoa cử và công danh, giả dụ cung Mệnh hoặc cung Phúc gặp nhóm sao này, nhưng bản thân Mệnh tạo lại không đi học, thì nhất định không thể có học vị.

Cần phải hiểu rõ sự khác biệt giữa Phụ diệu và Tá diệu, để lúc luận đoán mới phân biệt được tính chất khác nhau của cùng một tinh hệ.
Trong Đẩu Số, dùng cung Mệnh để luận đoán mệnh cách cho đương số là cao hay thấp, nó chủ về thực chất của vấn đề. Nếu cung mệnh trong tinh bàn hiển thị cách cục cao, thì khó gặp đại hạn và lưu niên quá xấu. Trái lại, nếu cung mệnh trong tinh bàn hiển thị cách cục thấp, thì sẽ khó gặp đại hạn và lưu niên quá tốt, bất quá chỉ thuận lợi nhất thời mà thôi. Do đó có thể thấy sự quan trọng của cung mệnh.

Cung Mệnh đối nhau với cung Di ở tứ chính, và tương hội với cung Quan với cung Tài ở tam phương. Cũng chính là nói, chúng có thể ảnh hưởng đến thực chất của vận trình, những tao ngộ như xuất ngoại, và mối quan hệ với người ở nơi xa hay người ngoại quốc, và các yếu tố như sự nghiệp phát triển có thuận lợi toại ý hay không, tài phú có được như ý hay không, .v.v... Do đó có thể nói cung mệnh trong tinh bàn Đẩu Số là then chốt chủ yếu để luận đoán. Xem xét tổ hợp các sao của cung mệnh, hầu như đã có thể định được đại khái vận thế của một đời người.

Còn cung Thân, theo thuyết thông thường, là dùng để luận đoán sự phát triển Hậu thiên của đương số. Nếu cung Mệnh cát, cung Thân cũng cát, đương nhiên cuộc đời nhiều thuận lợi toại ý. Nếu cung Mệnh cát, nhưng cung Thân không cát, thì giống như khối ngọc đẹp, nhưng lúc điêu khắc đã xảy ra sai sót, do đó làm giảm đẹp. Nếu cung Mệnh không cát, cung Thân cũng không cát, thì cũng giống như gỗ xấu không được điêu khắc, đời người đương nhiên giảm sắc, chỉ có thể khéo vận dụng đại hạn và lưu niên (nhân mệnh), lấy nỗ lực hậu thiên để bổ cứu. Đại hạn có cung Mệnh của đại hạn. Lưu niên có cung Mệnh của lưu niên. Thảy đều căn cứ vào những tính chất của các sao ở 12 cung để luận đoán.
Trong Đẩu Số, dùng cung Mệnh để luận đoán mệnh cách cho đương số là cao hay thấp, nó chủ về thực chất của vấn đề. Nếu cung mệnh trong tinh bàn hiển thị cách cục cao, thì khó gặp đại hạn và lưu niên quá xấu. Trái lại, nếu cung mệnh trong tinh bàn hiển thị cách cục thấp, thì sẽ khó gặp đại hạn và lưu niên quá tốt, bất quá chỉ thuận lợi nhất thời mà thôi. Do đó có thể thấy sự quan trọng của cung mệnh.

Cung Mệnh đối nhau với cung Di ở tứ chính, và tương hội với cung Quan với cung Tài ở tam phương. Cũng chính là nói, chúng có thể ảnh hưởng đến thực chất của vận trình, những tao ngộ như xuất ngoại, và mối quan hệ với người ở nơi xa hay người ngoại quốc, và các yếu tố như sự nghiệp phát triển có thuận lợi toại ý hay không, tài phú có được như ý hay không, .v.v... Do đó có thể nói cung mệnh trong tinh bàn Đẩu Số là then chốt chủ yếu để luận đoán. Xem xét tổ hợp các sao của cung mệnh, hầu như đã có thể định được đại khái vận thế của một đời người.

Còn cung Thân, theo thuyết thông thường, là dùng để luận đoán sự phát triển Hậu thiên của đương số. Nếu cung Mệnh cát, cung Thân cũng cát, đương nhiên cuộc đời nhiều thuận lợi toại ý. Nếu cung Mệnh cát, nhưng cung Thân không cát, thì giống như khối ngọc đẹp, nhưng lúc điêu khắc đã xảy ra sai sót, do đó làm giảm đẹp. Nếu cung Mệnh không cát, cung Thân cũng không cát, thì cũng giống như gỗ xấu không được điêu khắc, đời người đương nhiên giảm sắc, chỉ có thể khéo vận dụng đại hạn và lưu niên (nhân mệnh), lấy nỗ lực hậu thiên để bổ cứu. Đại hạn có cung Mệnh của đại hạn. Lưu niên có cung Mệnh của lưu niên. Thảy đều căn cứ vào những tính chất của các sao ở 12 cung để luận đoán.

Thông thường, mới học Đẩu Số chỉ lấy tính chất các sao của cung Mệnh để làm đối tượng quan sát tinh bàn. Thực ra không phải vậy, đại hạn có cung Mệnh của đại hạn, lưu niên có cung Mệnh của lưu niên. Lấy một ví dụ:

Mệnh lập tại cung Đinh Sửu có tinh hệ "Tử vi Phá quân", hội hợp với cung Quan có "Liêm trinh Tham lang" và cung Tài có "Vũ khúc Thất sát". Khi luận đoán, đương nhiên sẽ căn cứ tính chất của các sao ở tam phương tứ chính hội hợp với "Tử vi Phá quân" của cung Mệnh để luận định.

Lúc 2- 11 tuổi, cũng dùng các sao của cùng một cung để luận đoán, nhưng còn phải thêm vào các Lưu diệu thuộc cung này. Như cung can của bản cung là Đinh Sửu, cho nên lưu Lộc ở cung Ngọ, lưu Dương ở cung Mùi, lưu Đà ở cung Tị, lưu Khôi ở cung Hợi, lưu Việt ở cung Dậu, lưu hóa Lộc là Thái âm, lưu hóa Quyền là Thiên đồng, lưu hóa Khoa là thiên cơ, lưu hóa Kị là Cự môn. Lại vì cung chi là Sửu, cho nên lưu Mã ở cung Hợi.

Lúc 32 - 41 tuổi, đại hạn đến cung Giáp Tuất, tuy là cung Tử Tức của tinh bàn nguyên cục, nhưng lúc này không phải là xem con cái, mà là lấy cung Tử tức này làm cung Mệnh của đại hạn. Cung Tử có Thái dương độc tọa ở cung Tuất, tức là Thái dương đóng ở cung Mệnh của đại hạn. Lần lượt theo thứ tự nghịch mà xắp xếp "12 cung đại hạn", lấy cung Dậu làm cung Huynh của đại hạn, cung Thân làn cung Phu thê của đại hạn, cung Mùi làm cung Tử tức của đại hạn, .v.v... Căn cứ vào can chi của cung đại hạn là Giáp Tuất mà tìm Lưu diệu, như lưu Lộc ở cung Dần, lưu Dương ở cung Mão, lưu Đà ở cung Sửu, .v.v... cho đến lưu Mã ở cung Thân. Rồi mang các Lưu diệu kết hợp với các sao vốn bài bố ở tinh bàn nguyên cục để luận đoán.

Luận đoán lưu niên cũng vậy. Như lưu niên năm Giáp Tý, mượn sao của cung Tý trong tinh bàn, cung Tý trong tinh bàn có Thiên Cơ độc tọa, nên lấy Thiên Cơ làm chính diệu của cung Mệnh của lưu niên. Đồng thời cũng từ cung Tý bài bố nghịch chiều, lấy cung Hợi là cung Huynh của lưu niên, lấy cung Tuất làm cung Phu thê của lưu niên, lấy cung Dậu làm cung Tử tức của lưu niên, .v.v... đến cung Sửu làm cung Phụ mẫu của lưu niên.

Nhưng khi tìm các lưu diệu của lưu niên, do là lưu niên Giáp Tý, cho nên phải dựa vào can Giáp để tìm các lưu diệu, mà không dùng "Bính Tý" của tinh bàn. Điểm này cần đặc biệt chú ý.

Tóm lại do cung Mệnh có thể "phi động", cho nên khi luận đoán vận thế của đại hạn, lưu niên, thì cần phải theo những điều đã thuật ở trên, để nhận thức tính chất của cung Mệnh sau khi đã "phi động".
 
Top