Mối quan hệ giữa Mệnh và Hạn (Phần 1)

Trịnh Thanh Tuấn

Thành viên nhiệt tình
Thành viên BQT
第一节 命局, 大限, 小限流年的关系: Mối quan hệ giữa mệnh cục, đại hạn và lưu niên tiểu hạn
(Trịnh Thanh Tuấn lược dịch)

命和运是一个整体, 但各自又有所主与不同的特点."命" 是先天及内部因素, 是人的灵魂, 身体, 是人的命运的主体骨架, 主要成份."命" 的格局高低注定了一个人一生承受富贵福寿能力所达到的最高限额."运" 则是外部因素, 后天环境影响力, 是人适应时空场能变化的能力, 在各个时空场点上活动与运用的历程, 以及后天努力的结果, "运" .的发展变化也可以影响"命" 的结局.

Mệnh và Vận luôn hòa hợp với nhau tạo thành một chỉnh thể, nhưng chúng đều có những đặc điểm riêng biệt. "Mệnh" là “tiên thiên” cũng là nhân tố bên trong, là linh hồn, là thân thể, là thành phần căn bản của số phận của con người. "Mệnh" đích thực là cách cục cao thấp đã định trước có thể xác định một người suốt đời thừa hưởng Phú, Quý, Phúc, Thọ, đến mức độ như thế nào. Còn "Vận" lại là nhân tố bên ngoài, là sức ảnh hưởng của hoàn cảnh “hậu thiên”, là môi trường thích ứng hay không thích ứng với năng lực của bản thân một người, là lịch trình các hoạt động của một cá nhân tại mỗi thời điểm, cũng là kết quả của nỗ lực “hậu thiên”, sự phát triển biến hóa của "Vận" cũng có thể ảnh hưởng đến kết cục của "Mệnh".

内因起主要作用, 内因通过外因而起作用."命" 是主要因素, "命" 通过"运" 起作用, 所以"命" 和"运" 都很重要, 共同组成人生命运的曲线. 例如, 原命局凶星多或主星失陷, 出身贫穷, 逢限运化吉或吉星来合, 多有突发的成就, 好运过后仍为奔波失意; 反之, 原命局吉多星旺, 出身富贵, 逢限运恶煞化忌来冲, 亦会突然失意落魄, 唯恶运过后则能恢复元气. 又如, 原局有官的命, 大运扶助则有官当, 若一生不得运, 也是不能当官的, 最多不致太贫贱罢了; 原局无官的格局, 大运扶助也难有官当, 最多事业较顺而已.

Nguyên nhân bên trong là tác dụng khởi phát chủ yếu, nguyên nhân bên trong lại thông qua nhân tố bên ngoài mà có tác dụng. "Mệnh" là nhân tố chủ yếu, "Mệnh" thông qua "Vận" mà khởi phát tác dụng của nó, sở dĩ "Mệnh" cùng "Vận" đều rất quan trọng, là vì chúng tổ hợp thành một định tuyến của số phận con người. Ví dụ như, mệnh cục nhiều hung tinh hoặc chính tinh ở nơi hãm địa, là người xuất thân nghèo khó, gặp vận được cát hóa (Khoa, Quyền, Lộc) hoặc cát tinh hội hợp, phần nhiều là có thành tựu đột phá, khi vận tốt qua đi thì lại trở nên bôn ba mà không được như ý; ngược lại, mệnh cục nhiều cát tinh vượng địa, là người xuất thân phú quý, gặp phải vận hạn sát tinh, Hóa Kị trùng chiếu, nhất định đột nhiên nghèo khó thất ý, khi ác vận qua đi tất có thể khôi phục nguyên khí. Lại giả sử như, mệnh cục chủ về quan tước, đến đại vận được phù trợ tất được làm quan, nếu suốt đời không gặp được vận tốt, cũng không được làm quan chức, tối đa cũng chỉ không bị nghèo hèn mà thôi; mệnh cung không có quan cách, có được đại vận tốt phù trợ cũng khó được làm quan, tối đa thì được sự nghiệp phát triển thuận lợi.

在天垂象, 在地成形, 在人成事. 天盘如天, 大限盘如地, 流年盘如人. 命是天定的, 原命格局的高低, 注定一生富贵贫贱寿夭的大势, 即定数, 是静态部分. 岁限则是人生各个阶段在定数基础上的上下浮动变化情况, 即应数, 属动态部分. 原命盘的宫星反映人事的本质, 运限只反映人生的际遇,

“Tại thiên thùy tượng, tại địa thành hình, tại nhân thành sự” (Trên trời là “tượng”, dưới đất thành hình dạng, ở người thì là sự việc). Thiên bàn là “thiên”, đại hạn bàn là “địa”, lưu niên bàn là “nhân”. Mệnh đích thực là Thiên định, cách cục của nguyên mệnh cao hay thấp, sẽ xác định suốt đời phú quý hay nghèo hèn, thọ hay yểu, tức là định số, thuộc trạng thái “tĩnh”. Hạn từng năm là các giai đoạn thăng trầm, thay đổi, biến hóa của cuộc đời, thuộc về trạng thái “động”. Cung và Sao ở trong nguyên mệnh bàn phản ánh bản chất của sự việc trong đời người, vận hạn phản ánh những hoàn cảnh mà đời người gặp phải.

限运宫星不起本质, 本性 ( 性情 ) 的作用, 在短期内不可能达到, 但能显现原有象意的作用, 星曜的化气和象意特色仍起作用; 例如, 紫微本质为皇帝星, 须百官朝拱, 限运则无皇帝的本质, 可以不必百官朝拱, 但仍有高格调, 首, 头和才能等特色, 逢百官朝拱更为有利; 又如天机的本性主聪明, 须要科文星来拱, 在限运中则不能主聪明, 并不一定须要科文星拱, 在短期内难以达到聪明, 但机变, 变动, 谋划和依附权势的特色仍然存在, 逢科文吉星亦对运程有利.

Cung và Sao trong vận hạn không khởi phát tác dụng của bản chất, bản tính (tính tình) của nó, trong trong một thời gian ngắn không có khả năng đạt được điều đó, nhưng có thể biểu hiện tác dụng vốn có của tượng ý (hình tượng và ý nghĩa của sao), hóa khí và tượng ý của sao vẫn có tác dụng; ví dụ như, sao Tử vi bản chất là Hoàng đế, cần có bách quan triều củng (ý nói cần có Tả Hữu Xương Khúc Khôi Việt hội hợp), ở trong vận hạn tất nhiên bản chất của nó không phải là Hoàng đế, cho nên có thể không cần có bách quan triều củng, nhưng vẫn có tài năng lãnh đạo, dẫn đầu, điều phối rất đặc sắc, nếu gặp thêm bách quan triều củng thì càng có lợi. Lại như Thiên cơ bản tính đích thực chủ về thông minh, cần phải có khoa tinh, văn tinh củng chiếu, tại trong vận hạn tất không phải chủ về thông minh, nên không nhất định cần phải có khoa tinh, văn tinh củng chiếu, trong một thời gian ngắn không thể biến thành người thông minh, nhưng tính cơ biến, biến động, cơ mưu cùng với khả năng dựa vào quyền thế vẫn đang tồn tại, gặp khoa tính, văn tinh, cát tinh đối với vận trình vẫn có lợi.

限运宫星的性质为在先天盘宫星本质基础上的发展变化和反应, 看其对本质的影响如何? 是否为本质所喜还是所忌, 若为本质所喜则增强本质的作用, 人事向好方向展; 若为本质所忌则减弱本质的作用, 人事向坏方向发展. 命盘宫星的本质不同, 行运的喜忌也不同, 则限年的克应也不同. 因此, 岁限的分折是不能脱离命局的, 仍应以命局为主线, 为定数. 例如, 原命局显示其人无官, 大小限最好也只表示比较顺遂而已, 不可能升官, 即使升官也不大, 尤如鱼虾入大海任其畅游, 但不可能变成龙一样. 而什么时侯升官发财? 什么时侯灾殃? 则必须由大限, 流年小限来确定.

Tính chất cung, sao vận hành hạn dựa trên sự phát triển biến hóa và phản ứng của tính chất cung Thiên bàn, xem điều này có ảnh hưởng gì tới bản chất? Điều này có ảnh hưởng tốt hay ảnh hưởng xấu tới bản chất, nếu ảnh hưởng tốt thì sẽ có tác dụng tăng cường cho bản chất, con người, sự việc sẽ phát triển theo hướng tốt; nếu ảnh hưởng không tốt sẽ làm suy yếu bản chất, con người, sự việc phát triển theo chiều hướng xấu đi. Bản chất cung mệnh bàn khác nhau, hạn hành tốt xấu cũng khác nhau, khắc ứng (ứng hạn hay không ứng hạn) của hạn năm cung khác nhau. Vì vậy, phân tích hạn năm không thể xa rời Mệnh cục, vẫn phải lấy Mệnh cục làm then chốt để mà định số. Ví dụ, Mệnh cục biểu thị con người này không làm quan, đại tiểu hạn tốt lắm cũng chỉ thể hiện là rất thuận lợi, thì không thể thăng quan được, cho dù có thăng quan cũng không có được quan tước lớn. Ví như tôm cá vào được biển lớn tự do bơi lội, nhưng không thể biến thành con rồng được. Vậy khi nào có thể thăng quan phát tài được? Khi nào phải gặp tai ương? Điều này phải lấy đại hạn và lưu niên tiểu hạn để xác quyết. Đại hạn là điểm chuyển tiếp, là mốc quan trọng, có tác dụng then chốt. Phú quý cát hung đã được định hình cơ bản, tiếp theo cần xem ứng với năm nào trong đại hạn mười năm này. Ví như luận về hung tai, thì trước tiên xem cung tiêu điểm là nguồn trọng bệnh của mệnh cục, là nơi ẩn họa, tồn tại các tai ách, là gốc của họa. Sau đó cần xem diễn tiến phát triển của đại hạn, nếu hung tăng thì tăng thêm phần luận đoán tai ách có thể phát sinh, tai ách đã có manh nha hình thành. Sau đó định cục cơ bản, xem xảy ra vào năm nào; Tiếp theo xem trong đại hạn 10 năm này cung lưu niên tiểu hạn nào và cung lưu niên nào hung để xác quyết năm nào xảy ra tai ách. Tiếp theo xem xét tới hạn tháng, hạn ngày, hạn giờ.

"Còn tiếp"
 
Top